Hiển thị các bài đăng có nhãn Bình văn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bình văn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

 


MẠN THUẬT (11)
- Nguyễn Trãi -

Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,

Lãng thưởng chưa lìa lưới trần.

Ở thế những hiềm qua mỗ thế,

Có thân thì sá cốc chưng thân.

Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu,

Câu ước công danh đổi một cần[1].

Miệt[2] bả hài gai khăn cốc,

Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân.


Chú thích:

[1] Xem Mạn thuật bài 8, câu 4.

[2] “Miệt” nghĩa là bí tất, vớ. Cả câu ý nói vớ thô, giày gai, khăn cũ.

💥 Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu Nguyễn Trãi – bậc “anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”, đồng thời là nhà thơ kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam.

  • Giới thiệu Mạn thuật 11 (thuộc Quốc âm thi tập): phản ánh tâm sự của Ức Trai trong những năm ẩn dật, vừa thanh thản hòa mình với thiên nhiên, vừa day dứt vì chí lớn không trọn.

  • Dẫn vấn đề: Nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

2. Thân bài

a. Tâm thế ẩn dật của Nguyễn Trãi

  • “Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân / Lãng thưởng chưa lìa lưới trần”: trở về Côn Sơn, tìm cuộc sống bình yên, hòa hợp thiên nhiên nhưng vẫn còn vướng bận nợ trần thế.

  • Nhận định của Hoài Thanh: “Trong thơ Nguyễn Trãi, cái bóng của đời sống thực không bao giờ tan biến.” → dù nói ẩn dật nhưng vẫn phảng phất mối lo đời.

b. Suy tư về thân phận và lẽ đời

  • “Ở thế những hiềm qua mỗ thế / Có thân thì sá cốc chưng thân”: thái độ ngao ngán với lẽ đời thị phi, nhận ra quy luật “có thân ắt có phiền lụy”.

  • Thể hiện triết lý sống gắn với Nho – Phật – Lão: vừa nhập thế cứu đời, vừa lui về tu dưỡng.

  • Nhận định của Trần Đình Hượu: “Nguyễn Trãi là sự kết tinh của mâu thuẫn: vừa thiết tha nhập thế, vừa đau đớn thoát tục.”

c. Vẻ đẹp của đời sống thanh nhàn

  • “Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu / Câu ước công danh đổi một cần”: khung cảnh thôn dã với vườn thông, trúc gợi sự thanh cao.

  • Quan niệm “lấy cần câu đổi công danh” → thoát khỏi vòng danh lợi, tìm thú vui trong thiên nhiên.

  • Đây là “cái nhàn” mang đậm tinh thần Nho – Lão, khác với cái nhàn tiêu dao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này thể hiện.

d. Cuộc sống xuềnh xoàng, giản dị

  • “Miệt bả hài gai khăn cốc / Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân”: tự nguyện sống như một nông phu bình thường, gắn bó với dân quê.

  • Nhận định của Nguyễn Đăng Na: “Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên đưa hình ảnh người dân quê và cuộc sống thôn dã vào trong thi ca với tất cả sự trân trọng.”

e. Nghệ thuật

  • Thể thơ Nôm Đường luật nhưng phóng khoáng, linh hoạt.

  • Ngôn ngữ giản dị, giàu chất khẩu ngữ, gần gũi với đời sống thường nhật.

  • Nhiều từ thuần Việt mộc mạc (“xuềnh xoàng”, “mỗ đứa thôn nhân”) tạo sắc thái dân dã.

  • Kết hợp giữa chất triết lý và chất trữ tình.

3. Kết bài

  • Khẳng định: Mạn thuật 11 tiêu biểu cho tâm sự của Nguyễn Trãi – vừa yêu thiên nhiên, tìm đời sống nhàn tĩnh, vừa mang nỗi niềm bất đắc chí.

  • Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc, tinh thần gắn bó với dân quê, đồng thời phản ánh phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.

  • Nhận định của Phạm Văn Đồng: “Nguyễn Trãi đã để lại cho dân tộc ta một kho tàng thơ văn lớn lao, trong đó ánh lên một tâm hồn yêu nước, thương dân, chan chứa nhân nghĩa.”

💥Bài viết tham khảo

        Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị, nhà văn hóa kiệt xuất, đồng thời cũng là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học Việt Nam trung đại. Ông được UNESCO tôn vinh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu Bình Ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và khát vọng độc lập dân tộc, thì Quốc âm thi tập lại là nơi ông gửi gắm tâm tình cá nhân, những nỗi niềm về cuộc sống, thời thế và nhân tình. Trong đó, Mạn thuật 11 là một bài thơ tiêu biểu, phản ánh cuộc sống ẩn dật nơi Côn Sơn, vừa thanh nhàn hòa hợp với thiên nhiên, vừa phảng phất nỗi niềm day dứt của một chí lớn không trọn vẹn.

        Ngay từ hai câu mở đầu:

“Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,
Lãng thưởng chưa lìa lưới trần.”

       Nguyễn Trãi tự bạch về những năm tháng ẩn cư nơi quê cũ. Từ “náu” gợi cảm giác vừa tìm chốn nương náu, vừa có chút bất đắc dĩ, buồn tủi. Ông tìm niềm vui trong “lãng thưởng” – sự thưởng thức cảnh vật, nhưng tâm hồn vẫn chưa thoát khỏi “lưới trần”. Hoài Thanh từng nhận xét: “Trong thơ Nguyễn Trãi, cái bóng của đời sống thực không bao giờ tan biến.” Quả vậy, ngay cả khi ở ẩn, Nguyễn Trãi vẫn đau đáu mối lo về thế sự, vẫn mang nặng nợ đời, nợ nước.

          Hai câu tiếp theo bộc lộ nỗi ngán ngẩm với kiếp nhân sinh:

“Ở thế những hiềm qua mỗ thế,
Có thân thì sá cốc chưng thân.”

          Nguyễn Trãi nhận ra sự nghiệt ngã của đời người: sống ở đời thì tất yếu vướng phải thị phi, hiềm khích; có thân thì khó tránh khỏi khổ lụy. Đây là cái nhìn triết lý thấm đẫm tinh thần Phật – Lão, đồng thời cũng là lời tự nhủ để ông an phận với cuộc sống ẩn dật. Trần Đình Hượu từng nhận định: “Nguyễn Trãi là sự kết tinh của mâu thuẫn: vừa thiết tha nhập thế, vừa đau đớn thoát tục.” Những câu thơ này là minh chứng rõ ràng cho mâu thuẫn ấy: dẫu lui về thôn dã, ông vẫn không nguôi sự ngậm ngùi, chua xót cho thân phận mình.

            Ở hai câu thực, hình ảnh thiên nhiên hiện lên bình dị mà thanh cao:

“Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu,
Câu ước công danh đổi một cần.”

            Vườn thông trúc tượng trưng cho nếp sống thanh khiết, cao nhã. “Cần câu” là thú vui dân dã, giản dị, đối lập với “công danh” nơi triều chính. Chỉ bằng một cần câu, Nguyễn Trãi sẵn sàng đổi cả “công danh” – điều vốn là hoài bão của bao kẻ sĩ. Đây không phải sự buông bỏ tiêu cực, mà là thái độ lựa chọn một lối sống an nhiên, thanh sạch. Nó gợi nhớ đến nhận định của Phạm Văn Đồng: “Nguyễn Trãi đã để lại cho dân tộc ta một kho tàng thơ văn lớn lao, trong đó ánh lên một tâm hồn yêu nước, thương dân, chan chứa nhân nghĩa.” Chính vì “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi sẵn sàng từ bỏ công danh nhiễu nhương để giữ lấy sự thanh cao, trong sạch.

            Hai câu kết mang lại hình ảnh bình dị và gần gũi:

“Miệt bả hài gai khăn cốc,
Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân.”

        Ông chọn cho mình cuộc sống mộc mạc của một nông phu: đi dép gai, đội khăn cốc, xuềnh xoàng mà thanh thản. Cách dùng những từ thuần Việt như “miệt bả”, “xuềnh xoàng”, “mỗ đứa” khiến giọng thơ mộc mạc, gần với khẩu ngữ đời thường. Nguyễn Đăng Na từng nhận định: “Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên đưa hình ảnh người dân quê và cuộc sống thôn dã vào trong thi ca với tất cả sự trân trọng.” Ở đây, Nguyễn Trãi không chỉ tìm đến cuộc sống của dân quê, mà còn hóa thân vào chính họ, sống như họ, gắn bó máu thịt với họ.

            Về nghệ thuật, Mạn thuật 11 tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm Nguyễn Trãi: thể thơ Đường luật nhưng biến hóa linh hoạt, giàu tính dân tộc; ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống; nhiều từ thuần Việt tạo nên chất dân dã hiếm thấy trong văn học đương thời. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất triết lý sâu sắc và chất trữ tình dạt dào, giữa tâm sự cá nhân và khát vọng nhân sinh.

            Tóm lại, Mạn thuật 11 là bức tranh chân thực về cuộc sống ẩn dật của Nguyễn Trãi nơi Côn Sơn. Đằng sau vẻ bình dị, xuềnh xoàng là một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, mang trong mình những mâu thuẫn giữa nhập thế và thoát tục, giữa khát vọng công danh và nỗi đau đời thường. Bài thơ thể hiện nhân sinh quan, tư tưởng nhân nghĩa và tấm lòng gắn bó với dân quê của Nguyễn Trãi. Như Nguyễn Huệ Chi từng nhận xét: “Nguyễn Trãi là người đã làm cho tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ văn học, đồng thời là một tấm gương sáng về tư tưởng nhân nghĩa và tình thương yêu con người.” Đó cũng chính là giá trị trường tồn của Mạn thuật 11 nói riêng và Quốc âm thi tập nói chung.


 


NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM
- Tố Hữu -

Tặng chị Trần Thị Lý anh dũng

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên

Em có tuổi hay không có tuổi

Mái tóc em đây hay là mây là suối

Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông

Thịt da em hay là sắt là đồng?


Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt

Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt

Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh

Trên mình em đau đớn cả thân cành!


Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng

Em đã sống lại rồi, em đã sống!

Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung

Không giết được em, người con gái anh hùng!


Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại

Còn một giọt máu tươi còn đập mãi

Không phải cho em. Cho Lẽ phải trên đời

Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người!


Từ cõi chết, em trở về, chói lọi

Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi

Em trở về, người con gái quang vinh

Cả Nước ôm em, khúc ruột của mình.


Em đã sống, bởi vì em đã thắng

Cả Nước bên em, quanh giường nệm trắng

Hát cho em nghe như tiếng mẹ ngày xưa

Sông Thu Bồn giọng hát đò đưa...


Cả Nước cho em, cho em tất cả

Máu tiếp máu, cho lại hồng đôi má

Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân

Cho thịt da em lại nở trắng ngần!


Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ

Đôi gót đỏ lại trở về quê mẹ

Em sẽ đi, trên đường ấy thênh thang

Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng!


Ôi đôi mắt của em nhìn, rất đẹp

Hãy sáng mãi niềm tin tươi ánh thép

Như quê em gò nổi Kỳ Lam

Hỡi em, người con gái Việt Nam!

7-12-1958

💥 Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu Tố Hữu – lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ XX.

  • Hoàn cảnh sáng tác: 1958, viết về chị Trần Thị Lý – một nữ chiến sĩ cách mạng anh hùng.

  • Bài thơ là khúc ca ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất anh hùng và bất tử của người con gái Việt Nam trong kháng chiến.

2. Thân bài

a. Vẻ đẹp vừa huyền thoại vừa đời thường của người con gái Việt Nam

  • Câu hỏi tu từ mở đầu: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên…” → nhân vật trữ tình vừa thực vừa ảo.

  • Hình ảnh so sánh, ẩn dụ: tóc như mây, mắt như lửa, da thịt như sắt đồng → khắc họa sự kiêu hãnh, sức mạnh phi thường.

  • Người con gái hiện lên như biểu tượng lý tưởng hóa cho dân tộc.

b. Nỗi đau thể xác và tinh thần của người chiến sĩ cách mạng

  • Cảnh tra tấn: “Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung” → hiện thực khốc liệt.

  • Lời thơ như tiếng kêu thương, cảm thông và đồng thời ca ngợi sự bất khuất.

  • “Bàn tay như đôi lá còn xanh / Trên mình em đau đớn cả thân cành” → vừa gợi sự yếu mềm, vừa làm nổi bật nghị lực.

c. Sức sống bất diệt và trái tim vĩ đại

  • “Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại / Còn một giọt máu tươi còn đập mãi” → trái tim tượng trưng cho tình yêu quê hương, cho lẽ phải.

  • Người con gái Việt Nam bất tử trong khát vọng sống và tinh thần hy sinh.

d. Sự hồi sinh, hòa vào tình yêu dân tộc

  • Hình ảnh cả nước chở che: “Cả Nước ôm em, khúc ruột của mình” → biểu tượng cho sự gắn bó giữa cá nhân – dân tộc.

  • Giọng thơ tha thiết, nâng niu, chan chứa tình cảm như tiếng mẹ, dòng sông quê hương.

  • Sức sống hồi sinh trong niềm tin của cộng đồng: “Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân…”

e. Niềm tin vào tương lai, khẳng định vẻ đẹp bất diệt

  • Người con gái từ cõi chết trở về, mang niềm tin, ánh sáng, rực rỡ như sao vàng.

  • Hình tượng kết tinh trong câu thơ: “Hỡi em, người con gái Việt Nam” → khẳng định tầm vóc sử thi, biểu tượng bất diệt của dân tộc.

f. Nghệ thuật đặc sắc

  • Thể thơ tự do, nhịp điệu biến hóa linh hoạt.

  • Sử dụng nhiều câu hỏi tu từ, so sánh, ẩn dụ → tạo sức gợi mạnh mẽ.

  • Giọng điệu vừa bi thương vừa hào hùng, kết hợp trữ tình – sử thi.

  • Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.

3. Kết bài

  • Khẳng định: Người con gái Việt Nam là bài thơ tiêu biểu ca ngợi phẩm chất kiên cường, hy sinh và vẻ đẹp bất tử của phụ nữ Việt Nam.

  • Tác phẩm thể hiện cảm hứng nhân văn, niềm tin vào sức mạnh dân tộc và giá trị con người.

💥Bài viết tham khảo

       Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, Tố Hữu được coi là “ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng” (Nguyễn Đăng Mạnh). Thơ ông gắn bó mật thiết với từng chặng đường đấu tranh của dân tộc, là tiếng nói của thời đại, là bản anh hùng ca của nhân dân. Bài thơ Người con gái Việt Nam (1958) là một minh chứng tiêu biểu. Đây không chỉ là khúc ca ngợi ca một nữ anh hùng cách mạng, mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp bất khuất, sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam – “những con người đẹp hơn tất cả anh hùng, thi sĩ” (Chế Lan Viên).

     Ngay từ những dòng đầu tiên, Tố Hữu đã dẫn dắt người đọc vào thế giới của sự thiêng liêng, huyền thoại:
“Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi…”
       Câu hỏi tu từ gợi sự ngỡ ngàng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp siêu phàm của người con gái. Thơ Tố Hữu ở đây không dừng lại ở tả thực, mà hướng tới lý tưởng hóa, nâng nhân vật trữ tình lên tầm sử thi. Như Hoài Thanh từng nhận xét: “Thơ Tố Hữu là thơ của lý tưởng cộng sản, nhưng lý tưởng ấy đã nhập vào tình cảm, hòa vào cái hồn của dân tộc.” Chính vì thế, hình ảnh người con gái không chỉ là một cá nhân cụ thể, mà là biểu tượng chung của phụ nữ Việt Nam, vừa dịu dàng vừa kiên cường.

     Bên cạnh vẻ đẹp huyền thoại, Tố Hữu không quên khắc họa hiện thực đau thương của cuộc đấu tranh:
“Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng.”
        Những cực hình man rợ được liệt kê với nhịp điệu dồn dập. Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận xét: “Tố Hữu có một giọng thơ riêng, tha thiết, đằm thắm, nhưng khi cần lại cháy bỏng, sục sôi, như tiếng gọi của lẽ sống.” Ở đây, giọng thơ vừa xót xa vừa tự hào. Giữa đớn đau thể xác, sức mạnh tinh thần của “người con gái anh hùng” càng trở nên chói sáng, bất khuất. Hình ảnh “bàn tay như đôi lá còn xanh” là sự kết hợp tuyệt đẹp: vừa non trẻ, mong manh, vừa kiên cường, bất diệt.

      Tố Hữu đặc biệt nhấn mạnh đến trái tim – biểu tượng cao nhất của sự sống và niềm tin:
“Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho Lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người!”
       Trái tim ấy sống cho dân tộc, cho nhân loại, cho “lẽ phải trên đời”. Điều này khẳng định tư tưởng nhân văn xuyên suốt thơ Tố Hữu. Nhà phê bình Lê Đình Kỵ từng nhấn mạnh: “Thơ Tố Hữu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chiến đấu và tính trữ tình.” Ở đoạn thơ này, chất trữ tình dâng trào trong niềm cảm phục, trong tình yêu thương, còn chất chiến đấu hiển hiện qua lý tưởng cao đẹp mà người con gái chiến đấu và hy sinh vì nó.

      Không dừng ở nỗi đau và sự hy sinh, bài thơ mở ra hình ảnh hồi sinh đầy chan chứa yêu thương:
“Cả Nước ôm em, khúc ruột của mình…
Máu tiếp máu, cho lại hồng đôi má
Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân.”
        Người con gái được cả dân tộc nâng niu, chở che, như đứa con trong lòng mẹ. Điều đó khẳng định mối quan hệ máu thịt giữa cá nhân và cộng đồng – một đặc trưng lớn trong thơ ca Tố Hữu. Nguyễn Đình Thi từng viết: “Thơ Tố Hữu là thơ của tình cảm cách mạng, thơ của một tấm lòng chan chứa yêu thương.” Chính tình thương ấy đã đem đến cho nhân vật trữ tình sức hồi sinh kỳ diệu.

     Đi đến cuối bài thơ, hình tượng người con gái Việt Nam hiện lên với dáng đứng kiêu hãnh, bất tử:
“Em sẽ đi, trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng!”
        Niềm tin và ánh sáng tràn đầy trong đôi mắt “sáng mãi niềm tin tươi ánh thép”. Ở đây, hình tượng nhân vật trữ tình đã vượt ra khỏi một con người cụ thể, trở thành biểu tượng sử thi cho dân tộc. Như Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Tố Hữu là người đã đưa thơ ca cách mạng Việt Nam đạt tới tầm vóc sử thi.”

        Về nghệ thuật, Người con gái Việt Nam được viết bằng thể thơ tự do, nhịp điệu biến hóa linh hoạt theo mạch cảm xúc. Câu hỏi tu từ, ẩn dụ, so sánh tạo sắc thái huyền thoại và tính khái quát cao. Giọng điệu thơ vừa bi thương, vừa hào hùng, hòa quyện giữa tình cảm riêng tư và âm hưởng sử thi. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, thể hiện rõ đặc điểm “trữ tình chính trị” – dấu ấn đặc sắc trong phong cách thơ Tố Hữu.

        Tóm lại, Người con gái Việt Nam không chỉ là khúc ca bi tráng về một nữ chiến sĩ cách mạng, mà còn là bản anh hùng ca về người phụ nữ Việt Nam – những con người đã dâng hiến cả tuổi xuân, máu thịt cho Tổ quốc. Tác phẩm tiêu biểu cho cảm hứng lớn trong thơ Tố Hữu: ca ngợi con người, ca ngợi cách mạng, tin tưởng vào sức sống bất diệt của dân tộc. Như Nguyễn Đăng Mạnh từng viết: “Thơ Tố Hữu là sự kết tinh đẹp đẽ của tâm hồn và lý tưởng Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử hào hùng.” . Và chính điều ấy đã làm nên sức sống lâu bền của bài thơ trong lòng bạn đọc hôm nay.


Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025


NỤ CƯỜI XUÂN

- Xuân Diệu -

Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui,

Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời.

Sao buổi đầu xuân êm ái thế!

Cánh hồng kết những nụ cười tươi.

 

Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao,

Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;

Gió thơm phơ phất bay vô ý

Đem đụng cành mai sát nhánh đào.

 

Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều

Bên màu hoa mới thắm như kêu;

Nỗi gì âu yếm qua không khí,

Như thoảng đưa mùi hương mến yêu...

 

Này lượt đầu tiên thiếu nữ nghe

Nhạc thầm lên tiếng hát say mê;

Mùa xuân chín ửng trên đôi má

Xui khiến lòng ai thấy nặng nề...

 

Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người

Chưa từng hẹn đến, - giữa xuân tươi,

Cùng chàng trai trẻ xa xôi ấy

Thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười.

🌸 DÀN Ý PHÂN TÍCH

I. Mở bài

  • Giới thiệu Xuân Diệu – “ông hoàng thơ tình”, người thi sĩ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu.

  • “Nụ cười xuân” tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám: trẻ trung, rạo rực, say mê sự sống và tình yêu.

  • Nêu vấn đề: phân tích nội dung, nghệ thuật và giá trị của bài thơ.

II. Thân bài

1. Nội dung

  1. Bức tranh mùa xuân tươi mới, căng tràn nhựa sống

    • Tiếng chim, sương nắng, gió xuân, mai – đào, liễu xanh…

    • Thiên nhiên được cảm nhận qua giác quan tinh tế: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hương vị.

    • Gợi nên khung cảnh một thiên đường xuân ngập tràn sự sống.

  2. Thiếu nữ giữa mùa xuân

    • Hình ảnh thiếu nữ là “linh hồn” của cảnh xuân.

    • Thiếu nữ bâng khuâng, e lệ, vừa say mê cảnh sắc, vừa tràn ngập mơ ước tình yêu.

    • Nụ cười xuân chính là nụ cười tình tứ, ẩn chứa niềm khao khát gặp gỡ, yêu thương.

  3. Khát vọng tình yêu và tuổi trẻ

    • Xuân Diệu không chỉ tả cảnh mà gửi gắm niềm hồi hộp, mong chờ một tình yêu lứa đôi.

    • Mùa xuân đồng thời là mùa của tuổi trẻ – tình yêu – hạnh phúc.

    • Thơ vang lên tiếng gọi sống nồng nàn, đúng như Hoài Thanh từng nhận xét: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, bởi vì lúc nào cũng muốn giao cảm với đời, khát khao tận hưởng sự sống.”

2. Nghệ thuật

  • Ngôn ngữ giàu nhạc điệu, gieo vần uyển chuyển, tạo nhịp điệu êm ái như một bản nhạc xuân.

  • Hình ảnh tươi sáng, giàu sức gợi cảm: chim, hoa, gió, ánh nắng, thiếu nữ…

  • Bút pháp lãng mạn, tràn đầy cảm xúc chủ quan, thiên nhiên thấm đẫm tâm trạng tình yêu.

  • Thủ pháp nhân hóa, ẩn dụ, so sánh: “cánh hồng kết những nụ cười tươi”, “mùa xuân chín ửng trên đôi má”…

  • Thơ Xuân Diệu tiêu biểu cho cái đẹp tươi trẻ, hiện đại, mang phong vị phương Tây nhưng vẫn gần gũi hồn Việt.

III. Kết bài

  • “Nụ cười xuân” là bài thơ đẹp về thiên nhiên, tình yêu và tuổi trẻ.

  • Tác phẩm cho thấy hồn thơ Xuân Diệu: nồng nàn, say mê, luôn tìm kiếm hạnh phúc tình yêu trong từng khoảnh khắc.

  • Khẳng định giá trị: vừa góp phần làm nên diện mạo Thơ mới, vừa để lại bài ca bất tận về tuổi trẻ và mùa xuân.

🌿 BÀI VIẾT THAM KHẢO

        Trong nền Thơ mới, Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, là nhà thơ của tuổi trẻ, của tình yêu và của mùa xuân. Ông từng tự nhận: “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới / Tôi là con chim bị mùa xuân quyến rũ.” Bài thơ “Nụ cười xuân” chính là minh chứng rực rỡ cho một hồn thơ khát khao giao cảm với sự sống, nồng nàn và tha thiết yêu cuộc đời.

        Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã dựng lên một khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống:
“Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui,
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời.
Sao buổi đầu xuân êm ái thế!
Cánh hồng kết những nụ cười tươi.”

        Âm thanh ríu rít, ánh sáng rực rỡ, hương thơm ngan ngát, sắc hoa rạng ngời… tất cả tạo thành một bức tranh thiên nhiên rộn ràng. Mỗi chi tiết thiên nhiên đều tươi mới, đều có hồn, như đang reo vui trong bản giao hưởng của đất trời. Xuân Diệu cảm nhận mùa xuân bằng mọi giác quan: bằng mắt nhìn “ánh sáng ôm trùm những ngọn cao”, bằng tai nghe “inh ỏi tiếng chim vui”, bằng khứu giác tinh tế để thấy “gió thơm phơ phất”. Có thể nói, mùa xuân trong thơ ông không tĩnh lặng mà rạo rực, tràn đầy nhựa sống.

        Nhưng mùa xuân ấy không chỉ là ngoại cảnh. Trong khung cảnh xuân, hiện lên hình ảnh thiếu nữ – nhân vật trung tâm của bài thơ:
“Này lượt đầu tiên thiếu nữ nghe
Nhạc thầm lên tiếng hát say mê;
Mùa xuân chín ửng trên đôi má
Xui khiến lòng ai thấy nặng nề...”

        Thiếu nữ chính là hiện thân của mùa xuân. Trên đôi má nàng là sắc hồng của hoa, trong nụ cười nàng là nỗi rạo rực của đất trời. Xuân Diệu đã tinh tế khi gắn cảnh xuân với tâm xuân, thiên nhiên với lòng người. Nỗi bâng khuâng, e ấp, khao khát yêu thương của thiếu nữ cũng chính là khát vọng tình yêu mãnh liệt của thi sĩ. Cái “nặng nề” ở đây không phải buồn bã, mà là nỗi rung động ngọt ngào, sự trĩu nặng của tình cảm đang thức dậy trong trái tim.

          Bài thơ kết thúc bằng một nụ cười tình tứ:
“Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người
Chưa từng hẹn đến, – giữa xuân tươi,
Cùng chàng trai trẻ xa xôi ấy
Thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười.”

        Cái cười duyên dáng, e lệ ấy là điểm sáng của bài thơ. Nó không chỉ là nụ cười của một cô gái đang yêu, mà còn là nụ cười của mùa xuân, của sự sống, của tuổi trẻ. Thơ Xuân Diệu vì thế chan chứa niềm yêu đời, yêu người, đúng như Hoài Thanh đã nhận xét trong Thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Ông vội vàng, sôi nổi, riết róng muốn tận hưởng sự sống trên trần gian này.”

        Về nghệ thuật, “Nụ cười xuân” tiêu biểu cho phong cách Xuân Diệu trước Cách mạng. Hình ảnh thơ tươi sáng, giàu nhạc điệu, nhiều liên tưởng táo bạo, tinh tế. Những phép nhân hóa, so sánh, ẩn dụ được vận dụng linh hoạt, đem đến sức gợi cảm mãnh liệt. Thơ vừa có âm hưởng cổ điển của Đường thi (cảnh sắc, tả hoa, liễu, mai, đào), vừa thấm đẫm tinh thần hiện đại của Thơ mới – đó là cái nhìn tình yêu, cái nhìn cá nhân, chủ quan, nồng nàn.

        Tóm lại, “Nụ cười xuân” là bản hòa ca tuyệt đẹp về thiên nhiên, tuổi trẻ và tình yêu. Qua bài thơ, ta thấy rõ hồn thơ Xuân Diệu: luôn sống hết mình, yêu nồng nàn, khát khao giao cảm với cuộc đời. Đọc bài thơ, ta như nghe được tiếng gọi tha thiết: hãy sống, hãy yêu, hãy tận hưởng từng phút giây của tuổi trẻ và mùa xuân – bởi đó là khoảnh khắc đẹp nhất của đời người.


Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025


TRĂNG ƠI TỪ ĐÂU ĐẾN

- Trần Đăng Khoa -
 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ cánh rừng xa

Trăng hồng như quả chín

Lửng lơ lên trước nhà

 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay biển xanh diệu kỳ

Trăng tròn như mắt cá

Chẳng bao giờ chớp mi

 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ một sân chơi

Trăng bay như quả bóng

Đứa nào đá lên trời

 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ lời mẹ ru

Thương Cuội không được học

Hú gọi trâu đến giờ!

 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Hay từ đường hành quân

Trăng soi chú bộ đội

Và soi vàng góc sân

 

Trăng ơi... từ đâu đến?

Trăng đi khắp mọi miền

Trăng ơi có nơi nào

Sáng hơn đất nước em...

                                1968

💥 DÀN Ý PHÂN TÍCH    

1. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa – gương mặt thơ trẻ thời chống Mỹ, nổi tiếng với giọng thơ trong sáng, hồn nhiên mà thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước.

  • Giới thiệu bài thơ “Trăng ơi… từ đâu đến” (1968) – bài thơ thiếu nhi giàu sức gợi, dung hòa vẻ đẹp hồn nhiên của tuổi thơ và tình cảm thiêng liêng với Tổ quốc.

  • Đặt vấn đề: Nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

2. Thân bài

a. Nội dung

  • Khát vọng khám phá của trẻ thơ: Những câu hỏi “Trăng ơi… từ đâu đến?” lặp lại nhiều lần cho thấy sự tò mò, hồn nhiên, trí tưởng tượng bay bổng.

  • Trăng trong cái nhìn trẻ thơ:

    • Từ rừng xa, quả chín, mắt cá, quả bóng, lời ru của mẹ → trăng gắn liền với những hình ảnh đời thường gần gũi.

    • Gợi ra cái nhìn trong sáng, giàu liên tưởng, đầy chất ngộ nghĩnh.

  • Trăng gắn bó với đời sống dân tộc:

    • Trăng soi chú bộ đội, trăng gắn với đường hành quân → hình ảnh Tổ quốc trong kháng chiến.

    • Khổ cuối khẳng định: “Trăng đi khắp mọi miền… Sáng hơn đất nước em?” → tình yêu quê hương, tự hào dân tộc.

  • Thông điệp: Trăng là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên, của tuổi thơ, của tình yêu Tổ quốc. Bài thơ đề cao tình cảm trong sáng, gắn bó giữa cá nhân – cộng đồng – đất nước.

b. Nghệ thuật

  • Thể thơ 4–5–6 chữ: Ngắn gọn, giàu nhạc điệu, dễ thuộc, giàu tính thiếu nhi.

  • Biện pháp tu từ:

    • Điệp cấu trúc câu hỏi tu từ “Trăng ơi… từ đâu đến?” → tạo nhạc điệu, nhấn mạnh sự tò mò, mở ra nhiều cách liên tưởng.

    • So sánh độc đáo: trăng như quả chín, mắt cá, quả bóng → gần gũi, sinh động, giàu chất thơ trẻ thơ.

  • Ngôn ngữ: Trong sáng, giản dị, hồn nhiên, giàu tính gợi hình và giàu nhạc tính.

  • Sự kết hợp độc đáo: Hình ảnh thiếu nhi trong sáng kết hợp với hiện thực đất nước kháng chiến → làm nên chiều sâu ý nghĩa cho bài thơ.

3. Kết bài

  • Khẳng định nét đặc sắc của bài thơ: sự dung hòa giữa vẻ đẹp tuổi thơ hồn nhiên và tình yêu Tổ quốc sâu nặng.

  • Giá trị của bài thơ trong thơ ca thiếu nhi và trong dòng thơ ca cách mạng Việt Nam.

  • Nhận định: Nguyễn Duy đã góp cho thơ ca một bức tranh lung linh về trăng – biểu tượng của cái đẹp, của quê hương, đất nước.

 💥BÀI VIẾT THAM KHẢO

     Trần Đăng Khoa là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ. Ông đến với thơ bằng tiếng nói hồn nhiên, chân thật, gần gũi với đời thường nhưng cũng chan chứa tình yêu quê hương đất nước. Bài thơ “Trăng ơi… từ đâu đến” (1968) được viết cho thiếu nhi, song không chỉ mang đến những vần thơ trong sáng của tuổi thơ mà còn gửi gắm tình cảm thiêng liêng dành cho Tổ quốc. Đọc bài thơ, ta như bước vào thế giới liên tưởng hồn nhiên của một tâm hồn trẻ nhỏ, đồng thời cảm nhận được hơi thở của đất nước trong những năm tháng gian khổ mà anh hùng.

     Điều đầu tiên gây ấn tượng trong bài thơ là điệp khúc quen thuộc: “Trăng ơi… từ đâu đến?” Câu hỏi ấy lặp đi lặp lại ở đầu mỗi khổ thơ, giống như lời thắc mắc, tò mò không dứt của một đứa trẻ trước vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên. Nó thể hiện khát vọng muốn khám phá thế giới, muốn lý giải nguồn gốc của vầng trăng – một hiện tượng quen thuộc mà luôn chứa đựng sự bí ẩn. Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Thơ là tiếng nói đầu tiên của trái tim trước vũ trụ.” Ở đây, ta thấy rõ điều ấy: câu hỏi của trẻ thơ chính là sự rung động đầu tiên, là khát vọng được kết nối với thiên nhiên bao la.

    Từ câu hỏi ấy, những giả thuyết được đưa ra đầy ngộ nghĩnh: trăng có thể đến từ cánh rừng xa, trăng hồng như quả chín lửng lơ trước ngõ; hay từ biển xanh diệu kỳ, trăng tròn như mắt cá không bao giờ chớp mi; hay từ sân chơi, trăng bay như quả bóng được ai đó đá lên trời… Trăng hiện ra qua lăng kính tuổi thơ thật gần gũi và thân quen. Đứa trẻ nhìn trăng và liên tưởng đến quả chín, mắt cá, quả bóng – những hình ảnh hết sức đời thường. Đó chính là sự sáng tạo hồn nhiên của trí tưởng tượng, nơi thế giới thiên nhiên và thế giới con người hòa làm một. Nhà phê bình từng nhận xét: “Thơ thiếu nhi hay chính là sự tái sinh của trí tưởng tượng ngây thơ trong mỗi chúng ta.” Nguyễn Duy đã tái sinh trí tưởng tượng ấy qua những hình ảnh sống động, giản dị.

    Không chỉ dừng lại ở những liên tưởng ngộ nghĩnh, bài thơ còn mở rộng không gian bằng sự gắn bó giữa vầng trăng và đời sống dân tộc. Khi nhà thơ viết:
“Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân”

thì trăng không chỉ còn là trò chơi trẻ nhỏ, mà đã trở thành bạn đồng hành của những người lính trên chiến trường, là ánh sáng gắn với vận mệnh đất nước. Đây chính là nét đặc sắc làm cho bài thơ vượt lên khỏi khuôn khổ một khúc ca thiếu nhi. Trăng trong thơ Nguyễn Duy vừa hồn nhiên, vừa mang tầm vóc của Tổ quốc. Như một nhận định: “Trong thơ ca cách mạng, thiên nhiên không chỉ là cảnh sắc mà còn là nhân chứng của lịch sử.” Vầng trăng trong bài thơ là nhân chứng, là bạn đồng hành, là biểu tượng của khát vọng độc lập tự do.

        Khổ thơ cuối cùng vang lên như một lời khẳng định đầy tự hào:

“Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em…”

       Sau bao câu hỏi hồn nhiên, kết thúc bài thơ là một câu hỏi tu từ nhưng thực chất là một lời tự trả lời. Không nơi đâu có vầng trăng sáng hơn đất nước Việt Nam – nơi có tình mẹ, có tuổi thơ, có tiếng gọi trâu, có chú bộ đội, có hành quân ra trận. Đây là niềm tin, niềm tự hào và tình yêu tha thiết của nhà thơ dành cho Tổ quốc. Trong sáng tác này, Nguyễn Duy đã gửi vào thơ thiếu nhi một bài ca tình yêu đất nước giản dị mà sâu sắc.

       Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ 4–5–6 chữ, nhịp ngắn gọn, giàu nhạc điệu, phù hợp với trẻ em. Câu hỏi tu từ điệp điệp trùng trùng tạo nhịp điệu ngân nga như khúc hát. So sánh độc đáo (trăng như quả chín, mắt cá, quả bóng) vừa gợi hình, vừa gợi cảm, thể hiện trí tưởng tượng phong phú. Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, trong sáng, không cầu kỳ mà giàu sức biểu cảm. Đặc biệt, sự kết hợp giữa hình ảnh thiếu nhi và hình ảnh đất nước kháng chiến đã làm nên chiều sâu ý nghĩa, biến một bài thơ thiếu nhi thành khúc ca yêu nước đầy sức gợi.

       Từ góc nhìn rộng hơn, bài thơ “Trăng ơi… từ đâu đến” có thể xem là minh chứng cho sức mạnh của thơ ca trong việc nuôi dưỡng tâm hồn trẻ em và gieo mầm tình yêu Tổ quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét: “Thơ là chiếc nôi nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc.” Quả thật, qua bài thơ này, ta thấy thơ không chỉ khơi gợi trí tưởng tượng mà còn gieo vào lòng thế hệ trẻ niềm tự hào về đất nước.

           Tóm lại, “Trăng ơi… từ đâu đến” của Nguyễn Duy là một bài thơ thiếu nhi giàu nhạc điệu, hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng mang ý nghĩa sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước. Với nghệ thuật điệp khúc, so sánh độc đáo, hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, Nguyễn Duy đã tạo nên một khúc hát tuổi thơ đồng thời là một khúc ca Tổ quốc. Bài thơ không chỉ giúp ta thấy lại ánh trăng tuổi nhỏ mà còn nhắc nhở mỗi người về niềm tự hào và trách nhiệm với quê hương.