Thứ Hai, 23 tháng 6, 2025

Tri thức Ngữ văn 12 (Truyện truyền kỳ, Văn bản thông tin, Văn bản nghị luận, Phóng sự, Nhật ký, Tiểu thuyết)

 KIẾN THỨC CƠ BẢN

       I. TRUYỆN TRUYỀN KỲ

1. Truyện truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự cỡ nhỏ thời trung đại, có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường phản ánh hiện thực bằng yếu tố kì ảo. Nhiều truyện gần với truyện dân gian.

- Ở Việt Nam, truyện truyền kì được viết bằng chữ Hán, phát triển mạnh ở thế kỉ XVI-XVII, tiêu biểu là Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

2. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì, truyện dân gian

- Yếu tố kì ảo là những yếu tố kì lạ, hoang đường thể hiện qua sự kiện, cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, thủ pháp nghệ thuật,… của truyện kể.

- Trong truyện truyền kì, thế giới con người giao thoa và kết nối với thế giới của thành thần, ma, quỷ. Tuy nhiên, đằng sau những tình tiết kì ảo, phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực cũng như những quan niệm và thái độ của tác giả đối với đời sống đương thời.

- Trong truyện dân gian, yếu tố kì ảo được sử dụng nhằm thể hiện quan niệm dân gian về thế giới siêu nhiên hoặc niềm tin vào công lý. Chẳng hạn truyện cổ tích thần kì dùng yếu tố này để thể hiện sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên hoặc niềm tin vào công lý. Chẳng hạn truyện cổ tích thần kì dùng yếu tố này để thể hiện sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên hoặc hiện thực hóa ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, niềm tin “ở hiền gặp lành”.

- Quan niệm, mục đích, cách thức sử dụng yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì khác với truyện dân gian. Yếu tố kì ảo trong truyện dân gian gắn với niềm tin của tác giả dân gian về sự hiện hữu và vai trò của các thế lực siêu nhiên trong đời sống của con người. Đây cũng là phương tiện giúp người xưa nuôi dưỡng niềm tin và ước mơ về một thế giới tốt đẹp. Thế giới trong truyện truyền kì là một thế giới tưởng tượng. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì chủ yếu được sử dụng như là phương tiện nghệ thuật, giúp nhà văn dựng nên trong truyện kể một thế giới kì lạ hoang đường, qua đó đề cập đến những vấn đề đáng quan ngại của xã hội đương thời.

- Trong truyện ngắn hiện đại, khi cần, các nhà văn cũng thường sử dụng yếu tố kì ảo để thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân như Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lan, Chùa Đàn,… là những ví dụ tiêu biểu.

II. VĂN BẢN THÔNG TIN

1. Bố cục, mạch lạc của văn bản thông tin

 Bố cục: Trong văn bản thông tin, để đạt được mục đích viết, đa số tác giả kết hợp sử dụng nhiều kiểu sắp xếp, tổ chức các phần của văn bản, trong đó phổ biến là bốn kiểu cơ bản sau: trật tự thời gian, trật tự không gian, mức độ quan trọng của thông tin, trật tự logic (so sánh và đối chiếu, phân loại đối tượng, liệt kê, quan hệ nhân - quả, vấn đề và cách giải quyết,...).

Mạch lạc: Sự mạch lạc của văn bản thông tin được thể hiện ở việc các phần, đoạn, câu trong văn bản đều cùng bàn về một chủ đề và được sắp xếp theo trình tự, bố cục hợp lí. Thông thường, người viết có thể sử dụng hệ thống đề mục, một số từ ngữ cụ thể ứng với từng kiểu bố cục để tạo sự kết nối giữa các phần, đoạn, câu trong văn bản.

Dữ liệu nghiên cứu là những dữ liệu mà dựa vào đó, người nghiên cứu có thể đưa ra những kết luận đáng tin cậy. Trong nghiên cứu, dữ liệu có thể được chia thành hai nhóm chính là dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.

Dữ liệu sơ cấp là loại dữ liệu nguồn hay dữ liệu gốc, thường chưa được phân tích, diễn giải, xử lí. Loại dữ liệu này cung cấp thông tin chưa được xử lí hoặc bằng chứng, báo cáo, sự tường thuật trực tiếp, đầu tiên về một sự việc/ hiện tượng hoặc một phát hiện mới. Chẳng hạn: hiện vật/ tranh ảnh gốc, nhật kí, thư từ, diễn văn, nội dung phỏng vấn, bản tường thuật của nhân chứng, tác phẩm nghệ thuật, dữ liệu thống kê,...

Dữ liệu thứ cấp là loại dữ liệu cung cấp thông tin đã được người viết xử lí, kể lại, mô tả, tóm tắt, tổng hợp hoặc diễn giải, đánh giá từ những nguồn dữ liệu sơ cấp. Tiêu biểu cho dữ liệu thứ cấp là dữ liệu trong các sách, báo, tạp chí như: bách khoa toàn thư, từ điển, sách tham khảo, sách giáo khoa, các bài báo, tạp chí có tính diễn giải, phân tích, bình luận, tổng hợp,... thông tin, bài phê bình tác phẩm nghệ thuật,...

Việc chia dữ liệu thành hai loại nêu trên chỉ có tính tương đối. Mỗi loại đều có ưu thế, tác dụng riêng. Vì thế, trong nghiên cứu, chúng ta nên sử dụng kết hợp cả hai loại dữ liệu.

Tính mới mẻ, cập nhật, độ tin cậy của dữ liệu, thông tin trong văn bản: Dữ liệu, thông tin trong văn bản được xem là mới mẻ, cập nhật và có độ tin cậy khi đáp ứng một số yêu cầu sau:

- Được trích từ các tài liệu có tính học thuật như tạp chí khoa học chuyên ngành, sách chuyên khảo, giáo trình; thông tin trên trang web/ báo cáo của các tổ chức, cơ quan, nhà xuất bản có uy tín; văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn của cơ quan quản lí nhà nước;...

- Được công bố bởi chuyên gia trong lĩnh vực đó và có người đọc là học giả hoặc chuyên gia trong lĩnh vực đó.

- Có tính minh bạch nếu dữ liệu được thu thập và phân tích hợp lí, có thể kiểm chứng được.

- Có tính khách quan, không có tính định kiến và không được công bố vì mục đích thương mại hay chính trị.

- Mới cập nhật hoặc được xuất bản trong thời gian gần nhất.

2. Tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong học tập, nghiên cứu

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,... Một vài biểu hiện của việc tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong học tập, nghiên cứu: liệt kê đầy đủ các tài liệu tham khảo đã sử dụng và trình bày tài liệu tham khảo đúng quy cách; chú thích trích dẫn và ghi cước chú đúng quy cách; tham khảo thông tin từ các nguồn có độ tin cậy cao;...

       3. Quan điểm của người viết: Người viết bản tin phải đảm bảo tính khách quan, chuẩn xác trong việc đưa tin, nhưng khi cần cũng thể hiện rõ lập trường nhân văn, bảo vệ đạo lí và thuần phong mĩ tục, tôn trọng pháp luật, khẳng định, biểu dương cái thiện, phủ định, phê phán cái ác,…

       4. Phương tiện  giao tiếp phi ngôn ngữ là những hình ảnh, số liệu, biểu đồ, sơ đồ,… góp phần chuyển tải ý tưởng, quan điểm trong giao tiếp. Đây là phương tiện thường được sử dụng kết hợp với phương tiện ngôn ngữ trong văn bản thông tin tổng hợp, giúp thông tin được truyền tải hiệu quả, sinh động hơn.

Việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ cần đáp ứng được yêu cầu:

- Lựa chọn hình ảnh, số liệu, biểu đồ, sơ đồ,…liên quan trực tiếp đến các luận điểm của bài viết.

- Sử dụng các phương tiện này đúng thời điểm.

- Đưa ra các chỉ dẫn cần thiết.

- Chú thích cho các hình ảnh, sơ đồ,…trong bài viết: giải thích rõ về vị trí, ý nghĩa của hình ảnh, sơ đồ; nêu nguồn dẫn (nếu là dẫn lại từ nguồn khác, bài khác).

       5. Các yếu tố hình thức trong văn bản thông tin

- Văn bản thông tin có thể sử dụng một số yếu tố hình thức (bao gồm cả phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ) để biểu thị cách sắp xếp, cấu trúc thông tin trong văn bản hoặc làm cho các ý tưởng và thông tin hấp dẫn, sinh động, dễ hiểu.

- Chẳng hạn như: nhan đề; kí hiệu đánh dấu các phần, mục chú thích cho hình ảnh; bảng số liệu; biểu đồ, sơ đồ, lược đồ; mô hình; bản đồ.

       6. Dữ liệu trong văn bản thông tin

- Là sự thật hiển nhiên hoặc những phát biểu/ tuyên bố được xác minh bằng những bằng chứng cụ thể, được đo lường, quan sát một cách khoa học và mọi người công nhận. Vì thế, dữ liệu mang tính khách quan và là yếu tố làm nên tính chính xác, đáng tin cậy của văn bản thông tin.

        7. Thái độ, ý kiến, quan điểm của người viết trong văn bản thông tin

- Thường được trình bày dưới dạng những phát biểu thể hiện niềm tin, cảm nhận hoặc suy nghĩ của người viết về một vấn đề / đối tượng nào đó. Ý kiến, quan điểm có thể được/ không được xác minh bằng sự thật hoặc chứng cứ cụ thể, vì đó có thể là những suy nghĩ cảm tính hoặc diễn giải của người viết về thông tin, dữ liệu. Vì vậy, thái độ, ý kiến và quan điểm thường mang tính chủ quan. Đó là lí do dẫn đến hiện tượng cùng một dữ liệu, nhưng có thể có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về dữ liệu ấy.

        9. Thông tin cơ bản của văn bản

- Là thông tin quan trọng nhất mà người viết muốn truyền tải qua văn bản. Thông tin cơ bản được hỗ trợ bởi các thông tin chi tiết.

       10. Cách trình bày ý tưởng và thông tin, dữ liệu:

Một số cách trình bày thông tin, dữ liệu như:

+ Ý chính và nội dung chi tiết

+ Trật tự thời gian

+ Cấu trúc nguyên nhân – kết quả

+ Cấu trúc so sánh – đối chiếu

+ Cấu trúc vấn đề – cách giải quyết.

    III. VĂN BẢN NGHỊ LUẬN

    1. Khái niệm

   Văn bản nghị luận là loại văn bản thực hiện chức năng thuyết phục thông qua một hệ thống luận điểm, lý lẽ và bằng chứng được tổ chức chặt chẽ.

    2. Các yếu tố chính của văn bản nghị luận.

– Luận đề là vấn đề tư tưởng, quan điểm, quan niệm, … được tập trung bàn luận trong văn bản. Việc chọn luận đề để bàn luận luôn cho thấy rõ tầm nhận thức, trải nghiệm, sở trường, thái độ, cách nhìn nhận cuộc sống của người viết. Thông thường, luận đề của văn bản được thể hiện rõ từ nhan đề.

– Luận điểm là một ý kiến khái quát thể hiện tư tưởng, quan điểm, quan niệm của tác giả về luận đề. Nhờ hệ thống luận điểm (gọi nôm na là hệ thống ý), các khía cạnh cụ thể của luận đề mới được làm nổi bật theo một cách thức nhất định.

– Lý lẽ, bằng chứng được gọi gộp là luận cứ. Lý lẽ này sinh nhờ suy luận logic, được dùng để giải thích và triển khai luận điểm, giúp luận điểm trở nên sáng tỏ và đứng vững. Bằng chứng là những căn cứ cụ thể, sinh động được khai thác từ thực tiễn hoặc từ các tài liệu sách báo nhầm xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của lý lẽ. .

    3. Cách sắp xếp, trình bày luận đề, luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng

- Trong văn bản nghị luận, luận đề là quan điểm bao trùm toàn bộ bài viết, thường được nêu ở nhan đề hoặc trong phần mở đầu của bài viết.

- Luận điểm nhằm triển khai làm rõ cho luận đề; số luận điểm nhiều hay ít tuỳ thuộc vào dung lượng và nội dung của vấn đề. Mỗi luận điểm thường được trình bày bằng một câu khái quát và được làm sáng tỏ bởi các lí lẽ, dẫn chứng.

- Cách sắp xếp, trình bày các yếu tố trên thể hiện bố cục và trình tự, thứ bậc (kết cấu) của hệ thống ý trong bài nghị luận; giúp cho bài viết rõ ràng, mạch lạc , sức thuyết phục cao.

    4. Mục đích và quan điểm của người viết trong văn bản nghị luận

 + Mỗi văn bản được viết ra đều nhằm một mục đích nhất định. Mục đích của văn bản nghị luận là thuyết phục người đọc về ý kiến, tư tưởng của người viết trước một vấn đề, hiện tượng trong đời sống.

+ Quan điểm của người viết là cách người viết nhìn nhận, đánh giá vấn đề, hiện tượng cần bàn luận; thể hiện ý kiến khen, chê, đồng tình, phản đối trước vấn đề , hiện tượng ấy.

    5. Yếu tố  thuyết minh, miêu tả, tự sự trong văn nghị luận

-Yếu tố thuyết minh: cung cấp tri thức về nguồn gốc, cấu tạo, vai trò, ý nghĩa… của đối tượng cần bàn luận.

- Yếu tố miêu tả: thể hiện các đặc điểm, tính chất nổi bật của con người, đồ vật, cảnh sinh hoạt…

- Yếu tố tự sự: thuật lại các sự việc liên quan đến luận đề, luận điểm, các bằng chứng trong văn bản.

=> Mục đích chung: thuyết phục người đọc về ý kiến, quan điểm của người viết.

    6. Nhan đề của văn bản nghị luận

   Nhan đề của văn bản nghị luận thường khái quát nội dung chính của văn bản. Bên cạnh đó, để tăng sức thuyết phục, người viết có thể chọn những nhan đề độc đáo, khơi gợi cảm xúc nơi người đọc.

    7. Thao tác nghị luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn nghị luận.

    * Thao tác nghị luận

- Chứng minh: Trình bày các bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm.

- Giải thích: Nêu định nghĩa cho các khái niệm.

- Bình luận:Thể hiện ý kiến, quan điểm khen , chê, đồng tình hay phản đối của người viết với vấn đề nghị luận.

- So sánh: Đặt hai đối tượng trong mối tương quan để nhận ra điểm tương đồng và khác biệt.

- Phân tích: Chia nhỏ đối tượng cần bàn để xem xét đặc điểm của từng phần, từng bộ phận, sau đó khái quát đặc điểm chung của đối tượng.

- Bác bỏ: Chỉ ra, phân tích sự sai lầm trong các luận điểm, lí lẽ, bằng chứng mà người khác đưa ra.

    *Ngôn ngữ biểu cảm: Thể hiện qua cách lựa chọn và cách  dùng từ ngữ, kiểu câu khẳng định, câu phủ định, các biện pháp tu từ…, để thể hiện tình cảm, cảm xúc của người viết, từ đó khơi gợi tình cảm nơi người đọc.

       IV. PHÓNG SỰ, NHẬT KÝ, TIỂU THUYẾT

        1. Thể loại nhật kí, phóng sự:

      - Phóng sự là một thể loại thuộc loại hình kí phản ánh những sự việc, câu chuyện mang tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng nhất định đối với một cộng đồng xã hội, thể hiện thái độ rõ ràng của người viết đối với những sự việc đó. Tác giả phóng sự thường sử dụng các biện pháp nghiệp vụ báo chí như điều tra, phỏng vấn đối thoại,... nhằm đảm bảo tính xác định của tư liệu, đồng thời kết hợp sử dụng chọn lọc các phương tiện biểu đạt của văn học nhằm tăng giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.

      - Nhật kí là một thể loại thuộc loại hình kí, là hình thức tự thuật có độ tin cậy cao, được thể hiện dưới dạng ghi chép hằng ngày, có đánh số ngày, tháng, năm. Những cuốn nhật kí có giá trị văn học không đơn thuần ghi chép sự việc hằng ngày của một cá nhân mà còn giàu tính nhân văn, đặc sắc về ngôn từ và nghệ thuật, ví dụ như nhật kí của Tôn-xtôi (Tolstoi), An-na Phrăng (Anne Frank), Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…

      - Tính phi hư cấu trong phóng sự, nhật kí

        Phi hư cấu: cách phản ánh hiện thực theo nguyên tắc đề cao tính xác thực là đặc điểm của tác phẩm thuộc loại hình kí. Phóng sự, nhật kí cũng như các thể loại khác thuộc loại hình kí (hồi kí, tự truyện, nhật kí, phóng sự, kí sự) coi trọng việc sử dụng các chi tiết, sự kiện mang thông tin xác định, có thể kiểm chứng.

      - Chi tiết, sự kiện hiện thực là loại chi tiết, sự kiện có thật trong đời sống, tồn tại một cách khách quan.

       Đối với phóng sự, nhật kí, việc kết hợp chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm, thái độ và đánh giá của người viết vừa thể hiện được tinh xác thực của thông tin vừa đem lại cho người đọc những nhận thức sâu sắc gắn liền với cái nhìn, tình cảm của tác giả về thông tin được phản ánh trong văn bản.

    2. Thể loại Tiểu thuyết

    2.1.Khái niệm: 

Là thể loại văn xuôi tự sự hư cấu cỡ lớn, có khả năng phản ánh 

những bức tranh đời sống ở quy mô sâu rộng.

    2.2 Đặc điểm

2.2.1.Đặc điểm thể loại tiểu thuyết (so với truyện ngắn)

 

Truyện ngắn

Tiểu thuyết

Kích thước, dung lượng

Kích thước nhỏ, có thể đọc hết trong một lần đọc, xuất bản dưới dạng tập truyện

Dung lượng lớn, khó có thể đọc hết trong một lần đọc, có thể xuất bản thành một ấn bản riêng

Nhân vật

Thường chỉ có 1 – 2 nhân vật chính, chỉ giới hạn trong cái nhìn của một nhân vật trung tâm

– Số lượng nhân vật nhiều

– Kiểu nhân vật đời thường trong mối quan hệ đa dạng, số phận trọn vẹn với quá trình phát triển tính cách dài, phức tạp

Cốt truyện

Thường đơn giản, cô đúc, xoay quanh một vài sự kiện chính, dồn nén mâu thuẫn trong một khoảng thời gian ngắn

Diễn biến cốt truyện phức tạp, nhiều tuyến truyện đan xen, xảy ra trong bối cảnh không gian rộng, thời gian dài


2.2.2.Đặc điểm tiểu thuyết hiện đại (so với tiểu thuyết trung đại)

 

Tiểu thuyết trung đại

Tiểu thuyết hiện đại

Chữ viết

Chữ Hán là chủ yếu

Chữ  Quốc ngữ

Chịu ảnh hưởng

Văn học Trung Quốc

Văn học phương Tây

Kết cấu

Kết cấu chương hồi

Kết cấu chương đoạn

Cốt truyện

– Cốt truyện tuyến tính

– Đặc biệt chú trọng sự kiện và chi tiết đời sống

– Cốt truyện có thể tuyến tính hoặc phi tuyến tính

– Đặc biệt chú trọng đến thế giới nội tâm và sự phát triển tính cách nhân vật

Điểm nhìn

Ngôi thứ ba toàn tri

Điểm nhìn đa dạng (ngôi thứ nhất hoặc thứ ba toàn tri, hạn tri, hoặc có sự kết hợp, di chuyển điểm nhìn)

Ngôn ngữ

Mang tính cách điệu, trau chuốt

Dung nạp lời nói hằng ngày của mọi lớp người, kể cả tiếng lóng

    2.2.3.  Sự kết hợp ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết

– Ngôn ngữ người kể chuyện phản ánh: thái độ, quan điểm của người kể chuyện với câu chuyện và nhân vật.

– Ngôn ngữ nhân vật phản ánh: xuất thân, nền tảng văn hoá, tính cách, thái độ của nhân vật.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cách viết đoạn/bài phân tích nhân vật trong văn bản truyện/nhật ký

I. VÍ DỤ THAM KHẢO Câu 1 (2.0 điểm), đề thi thử số 16:  Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp của nhân vật  Th.  trong đ...