KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TRUYỆN TRUYỀN KỲ
1. Truyện truyền kì là một thể
loại văn xuôi tự sự cỡ nhỏ thời trung đại, có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường
phản ánh hiện thực bằng yếu tố kì ảo. Nhiều truyện gần với truyện dân gian.
- Ở Việt Nam, truyện truyền kì được viết bằng chữ Hán, phát triển
mạnh ở thế kỉ XVI-XVII, tiêu biểu là Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
2. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì, truyện dân gian
- Yếu tố kì ảo là những yếu tố kì lạ, hoang đường thể hiện qua sự
kiện, cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, thủ pháp nghệ thuật,… của
truyện kể.
- Trong truyện truyền kì, thế giới con người giao thoa và kết nối
với thế giới của thành thần, ma, quỷ. Tuy nhiên, đằng sau những tình tiết kì ảo,
phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực
cũng như những quan niệm và thái độ của tác giả đối với đời sống đương thời.
- Trong truyện dân gian, yếu tố kì ảo được sử dụng nhằm thể hiện
quan niệm dân gian về thế giới siêu nhiên hoặc niềm tin vào công lý. Chẳng hạn
truyện cổ tích thần kì dùng yếu tố này để thể hiện sức mạnh của các lực lượng
siêu nhiên hoặc niềm tin vào công lý. Chẳng hạn truyện cổ tích thần kì dùng yếu
tố này để thể hiện sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên hoặc hiện thực hóa ước
mơ về cuộc sống tốt đẹp, niềm tin “ở hiền gặp lành”.
- Quan niệm, mục đích, cách thức sử dụng yếu tố kì ảo trong truyện
truyền kì khác với truyện dân gian. Yếu tố kì ảo trong truyện dân gian gắn với
niềm tin của tác giả dân gian về sự hiện hữu và vai trò của các thế lực siêu
nhiên trong đời sống của con người. Đây cũng là phương tiện giúp người xưa nuôi
dưỡng niềm tin và ước mơ về một thế giới tốt đẹp. Thế giới trong truyện truyền
kì là một thế giới tưởng tượng. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì chủ yếu được
sử dụng như là phương tiện nghệ thuật, giúp nhà văn dựng nên trong truyện kể một
thế giới kì lạ hoang đường, qua đó đề cập đến những vấn đề đáng quan ngại của
xã hội đương thời.
- Trong truyện ngắn hiện đại, khi cần, các nhà văn cũng thường sử dụng yếu tố kì ảo để thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân như Trên đỉnh non Tản, Xác ngọc lan, Chùa Đàn,… là những ví dụ tiêu biểu.
II. VĂN BẢN THÔNG TIN
1. Bố cục, mạch lạc của văn bản thông tin
Bố cục: Trong văn bản thông tin, để đạt được mục
đích viết, đa số tác giả kết hợp sử dụng nhiều kiểu sắp xếp, tổ chức các phần của
văn bản, trong đó phổ biến là bốn kiểu cơ bản sau: trật tự thời gian, trật tự
không gian, mức độ quan trọng của thông tin, trật tự logic (so sánh và đối chiếu,
phân loại đối tượng, liệt kê, quan hệ nhân - quả, vấn đề và cách giải quyết,...).
Mạch lạc:
Sự mạch lạc của văn bản thông tin được thể hiện ở việc các phần, đoạn, câu
trong văn bản đều cùng bàn về một chủ đề và được sắp xếp theo trình tự, bố cục
hợp lí. Thông thường, người viết có thể sử dụng hệ thống đề mục, một số từ ngữ
cụ thể ứng với từng kiểu bố cục để tạo sự kết nối giữa các phần, đoạn, câu
trong văn bản.
Dữ liệu
nghiên cứu là những dữ liệu mà dựa vào đó, người nghiên cứu có thể đưa ra những
kết luận đáng tin cậy. Trong nghiên cứu, dữ liệu có thể được chia thành hai
nhóm chính là dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
Dữ liệu sơ
cấp là loại dữ liệu nguồn hay dữ liệu gốc, thường chưa được phân tích, diễn giải,
xử lí. Loại dữ liệu này cung cấp thông tin chưa được xử lí hoặc bằng chứng, báo
cáo, sự tường thuật trực tiếp, đầu tiên về một sự việc/ hiện tượng hoặc một
phát hiện mới. Chẳng hạn: hiện vật/ tranh ảnh gốc, nhật kí, thư từ, diễn văn, nội
dung phỏng vấn, bản tường thuật của nhân chứng, tác phẩm nghệ thuật, dữ liệu thống
kê,...
Dữ liệu thứ
cấp là loại dữ liệu cung cấp thông tin đã được người viết xử lí, kể lại, mô tả,
tóm tắt, tổng hợp hoặc diễn giải, đánh giá từ những nguồn dữ liệu sơ cấp. Tiêu
biểu cho dữ liệu thứ cấp là dữ liệu trong các sách, báo, tạp chí như: bách khoa
toàn thư, từ điển, sách tham khảo, sách giáo khoa, các bài báo, tạp chí có tính
diễn giải, phân tích, bình luận, tổng hợp,... thông tin, bài phê bình tác phẩm
nghệ thuật,...
Việc chia
dữ liệu thành hai loại nêu trên chỉ có tính tương đối. Mỗi loại đều có ưu thế,
tác dụng riêng. Vì thế, trong nghiên cứu, chúng ta nên sử dụng kết hợp cả hai
loại dữ liệu.
Tính mới mẻ,
cập nhật, độ tin cậy của dữ liệu, thông tin trong văn bản: Dữ liệu, thông tin trong
văn bản được xem là mới mẻ, cập nhật và có độ tin cậy khi đáp ứng một số yêu cầu
sau:
- Được
trích từ các tài liệu có tính học thuật như tạp chí khoa học chuyên ngành, sách
chuyên khảo, giáo trình; thông tin trên trang web/ báo cáo của các tổ chức, cơ
quan, nhà xuất bản có uy tín; văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn của cơ quan
quản lí nhà nước;...
- Được
công bố bởi chuyên gia trong lĩnh vực đó và có người đọc là học giả hoặc chuyên
gia trong lĩnh vực đó.
- Có tính
minh bạch nếu dữ liệu được thu thập và phân tích hợp lí, có thể kiểm chứng được.
- Có tính
khách quan, không có tính định kiến và không được công bố vì mục đích thương mại
hay chính trị.
- Mới cập
nhật hoặc được xuất bản trong thời gian gần nhất.
2. Tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong học tập, nghiên cứu
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối
với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp,... Một vài biểu hiện của việc tôn trọng và bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ trong học tập, nghiên cứu: liệt kê đầy đủ các tài liệu tham khảo
đã sử dụng và trình bày tài liệu tham khảo đúng quy cách; chú thích trích dẫn
và ghi cước chú đúng quy cách; tham khảo thông tin từ các nguồn có độ tin cậy
cao;...
3. Quan điểm của người viết: Người viết bản tin phải đảm bảo tính khách quan, chuẩn xác trong việc đưa tin, nhưng khi cần cũng thể hiện rõ lập trường nhân văn, bảo vệ đạo lí và thuần phong mĩ tục, tôn trọng pháp luật, khẳng định, biểu dương cái thiện, phủ định, phê phán cái ác,…
4. Phương
tiện giao tiếp phi ngôn ngữ là những
hình ảnh, số liệu, biểu đồ, sơ đồ,… góp phần chuyển tải ý tưởng, quan điểm
trong giao tiếp. Đây là phương tiện thường được sử dụng kết hợp với phương tiện
ngôn ngữ trong văn bản thông tin tổng hợp, giúp thông tin được truyền tải hiệu
quả, sinh động hơn.
Việc sử dụng
các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ cần đáp ứng được yêu cầu:
- Lựa chọn
hình ảnh, số liệu, biểu đồ, sơ đồ,…liên quan trực tiếp đến các luận điểm của
bài viết.
- Sử dụng các
phương tiện này đúng thời điểm.
- Đưa ra các
chỉ dẫn cần thiết.
- Chú thích
cho các hình ảnh, sơ đồ,…trong bài viết: giải thích rõ về vị trí, ý nghĩa của
hình ảnh, sơ đồ; nêu nguồn dẫn (nếu là dẫn lại từ nguồn khác, bài khác).
5. Các yếu tố hình thức trong văn bản thông tin
- Văn bản
thông tin có thể sử dụng một số yếu tố hình thức (bao gồm cả phương tiện giao
tiếp phi ngôn ngữ) để biểu thị cách sắp xếp, cấu trúc thông tin trong văn bản
hoặc làm cho các ý tưởng và thông tin hấp dẫn, sinh động, dễ hiểu.
- Chẳng hạn
như: nhan đề; kí hiệu đánh dấu các phần, mục chú thích cho hình ảnh; bảng số liệu;
biểu đồ, sơ đồ, lược đồ; mô hình; bản đồ.
6.
Dữ liệu trong văn bản thông tin
- Là sự thật
hiển nhiên hoặc những phát biểu/ tuyên bố được xác minh bằng những bằng chứng cụ
thể, được đo lường, quan sát một cách khoa học và mọi người công nhận. Vì thế,
dữ liệu mang tính khách quan và là yếu tố làm nên tính chính xác, đáng tin cậy
của văn bản thông tin.
7. Thái độ,
ý kiến, quan điểm của người viết trong văn bản thông tin
- Thường được
trình bày dưới dạng những phát biểu thể hiện niềm tin, cảm nhận hoặc suy nghĩ của người
viết về một vấn đề / đối tượng nào đó. Ý kiến, quan điểm có thể được/ không được
xác minh bằng sự thật hoặc chứng cứ cụ thể, vì đó có thể là những suy nghĩ cảm
tính hoặc diễn giải của người viết về thông tin, dữ liệu. Vì vậy, thái độ, ý kiến
và quan điểm thường mang tính chủ quan. Đó là lí do dẫn đến hiện tượng cùng một
dữ liệu, nhưng có thể có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về dữ liệu ấy.
9. Thông
tin cơ bản của văn bản
- Là thông
tin quan trọng nhất mà người viết muốn truyền tải qua văn bản. Thông tin cơ bản
được hỗ trợ bởi các thông tin chi tiết.
10. Cách
trình bày ý tưởng và thông tin, dữ liệu:
Một số cách
trình bày thông tin, dữ liệu như:
+ Ý chính và
nội dung chi tiết
+ Trật tự thời
gian
+ Cấu trúc
nguyên nhân – kết quả
+ Cấu trúc so
sánh – đối chiếu
+ Cấu trúc vấn
đề – cách giải quyết.
III. VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
1. Khái niệm
Văn
bản nghị luận là loại văn bản thực hiện chức năng thuyết phục
thông qua một hệ thống luận điểm, lý lẽ và bằng chứng được tổ chức chặt chẽ.
2. Các yếu tố chính của văn bản
nghị luận.
– Luận đề là vấn đề tư tưởng,
quan điểm, quan niệm, … được tập trung bàn luận trong văn bản. Việc chọn luận
đề để bàn luận luôn cho thấy rõ tầm nhận thức, trải nghiệm, sở trường, thái độ,
cách nhìn nhận cuộc sống của người viết. Thông thường, luận đề của văn bản được
thể hiện rõ từ nhan đề.
– Luận điểm là một ý kiến khái
quát thể hiện tư tưởng, quan điểm, quan niệm của tác giả về luận đề. Nhờ hệ
thống luận điểm (gọi nôm na là hệ thống ý), các khía cạnh cụ thể của luận đề
mới được làm nổi bật theo một cách thức nhất định.
– Lý lẽ, bằng chứng được gọi
gộp là luận cứ. Lý lẽ này sinh nhờ suy luận logic, được
dùng để giải thích và triển khai luận điểm, giúp luận điểm trở nên sáng tỏ và
đứng vững. Bằng chứng là những căn cứ cụ thể, sinh động được khai thác từ thực
tiễn hoặc từ các tài liệu sách báo nhầm xác nhận tính đúng đắn, hợp lý của lý
lẽ. .
3. Cách sắp xếp, trình
bày luận đề, luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng
- Trong văn bản nghị luận, luận đề
là quan điểm bao trùm toàn bộ bài viết, thường được nêu ở nhan đề hoặc trong phần
mở đầu của bài viết.
- Luận điểm nhằm triển khai làm rõ
cho luận đề; số luận điểm nhiều hay ít tuỳ thuộc vào dung lượng và nội dung của
vấn đề. Mỗi luận điểm thường được trình bày bằng một câu khái quát và được làm
sáng tỏ bởi các lí lẽ, dẫn chứng.
- Cách sắp xếp, trình bày các yếu tố
trên thể hiện bố cục và trình tự, thứ bậc (kết cấu) của hệ thống ý trong bài
nghị luận; giúp cho bài viết rõ ràng, mạch lạc , sức thuyết phục cao.
4. Mục đích và quan điểm
của người viết trong văn bản nghị luận
+ Mỗi văn bản được viết ra đều nhằm một mục
đích nhất định. Mục đích của văn bản nghị luận là thuyết phục người đọc về ý kiến,
tư tưởng của người viết trước một vấn đề, hiện tượng trong đời sống.
+ Quan điểm của người viết là cách
người viết nhìn nhận, đánh giá vấn đề, hiện tượng cần bàn luận; thể hiện ý kiến
khen, chê, đồng tình, phản đối trước vấn đề , hiện tượng ấy.
5. Yếu tố thuyết
minh, miêu tả, tự sự trong văn nghị luận
-Yếu tố thuyết minh: cung cấp tri thức về nguồn
gốc, cấu tạo, vai trò, ý nghĩa… của đối tượng cần bàn luận.
- Yếu tố miêu tả: thể hiện các đặc điểm,
tính chất nổi bật của con người, đồ vật, cảnh sinh hoạt…
- Yếu tố tự sự: thuật lại các sự việc liên
quan đến luận đề, luận điểm, các bằng chứng trong văn bản.
=> Mục đích chung: thuyết phục người đọc
về ý kiến, quan điểm của người viết.
6. Nhan đề của văn bản nghị luận
Nhan đề của
văn bản nghị luận thường khái quát nội dung chính của văn bản. Bên cạnh đó, để
tăng sức thuyết phục, người viết có thể chọn những nhan đề độc đáo, khơi gợi cảm
xúc nơi người đọc.
7. Thao tác nghị luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn
nghị luận.
* Thao tác nghị luận
- Chứng minh: Trình bày các bằng chứng để làm sáng tỏ luận điểm.
- Giải thích: Nêu định nghĩa cho các khái niệm.
- Bình luận:Thể hiện ý kiến, quan điểm khen , chê, đồng tình
hay phản đối của người viết với vấn đề nghị luận.
- So sánh: Đặt hai đối tượng trong mối tương quan để nhận
ra điểm tương đồng và khác biệt.
- Phân tích: Chia nhỏ đối tượng cần bàn để xem xét đặc điểm của
từng phần, từng bộ phận, sau đó khái quát đặc điểm chung của đối tượng.
- Bác bỏ: Chỉ ra, phân tích sự sai lầm trong các luận điểm,
lí lẽ, bằng chứng mà người khác đưa ra.
*Ngôn ngữ biểu cảm: Thể hiện qua cách lựa chọn và cách
dùng từ ngữ, kiểu câu khẳng định, câu phủ định, các biện pháp tu từ…, để
thể hiện tình cảm, cảm xúc của người viết, từ đó khơi gợi tình cảm nơi người đọc.
IV. PHÓNG SỰ, NHẬT KÝ, TIỂU THUYẾT
1. Thể loại nhật
kí, phóng sự:
- Phóng sự là một thể loại thuộc loại hình kí phản ánh những
sự việc, câu chuyện mang tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng nhất định đối
với một cộng đồng xã hội, thể hiện thái độ rõ ràng của người viết đối với những
sự việc đó. Tác giả phóng sự thường sử dụng các biện pháp nghiệp vụ báo chí như
điều tra, phỏng vấn đối thoại,... nhằm đảm bảo tính xác định của tư liệu, đồng
thời kết hợp sử dụng chọn lọc các phương tiện biểu đạt của văn học nhằm tăng
giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.
- Nhật
kí là một thể loại thuộc loại hình kí, là
hình thức tự thuật có độ tin cậy cao, được thể hiện dưới dạng ghi chép hằng
ngày, có đánh số ngày, tháng, năm. Những cuốn nhật kí có giá trị văn học không
đơn thuần ghi chép sự việc hằng ngày của một cá nhân mà còn giàu tính nhân văn,
đặc sắc về ngôn từ và nghệ thuật, ví dụ như nhật kí của Tôn-xtôi (Tolstoi),
An-na Phrăng (Anne Frank), Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc,…
- Tính phi hư
cấu trong phóng sự, nhật kí
Phi hư cấu:
cách phản ánh hiện thực theo nguyên tắc đề cao tính xác thực là đặc điểm của
tác phẩm thuộc loại hình kí. Phóng sự, nhật kí cũng như các thể loại khác thuộc
loại hình kí (hồi kí, tự truyện, nhật kí, phóng sự, kí sự) coi trọng việc sử
dụng các chi tiết, sự kiện mang thông tin xác định, có thể kiểm chứng.
- Chi tiết,
sự kiện hiện thực là loại chi
tiết, sự kiện có thật trong đời sống, tồn tại một cách khách quan.
Đối với
phóng sự, nhật kí, việc kết hợp chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm,
thái độ và đánh giá của người viết vừa thể hiện được tinh xác thực của thông
tin vừa đem lại cho người đọc những nhận thức sâu sắc gắn liền với cái nhìn,
tình cảm của tác giả về thông tin được phản ánh trong văn bản.
2. Thể loại Tiểu
thuyết
2.1.Khái niệm:
Là thể loại văn xuôi tự sự hư cấu cỡ lớn, có khả năng phản ánh
những bức tranh đời sống ở quy mô sâu rộng.
2.2 Đặc điểm
2.2.1.Đặc điểm thể loại tiểu thuyết (so với truyện ngắn) |
||
|
Truyện ngắn |
Tiểu thuyết |
Kích thước,
dung lượng |
Kích thước nhỏ, có thể đọc
hết trong một lần đọc, xuất bản dưới dạng tập truyện |
Dung lượng lớn, khó có thể
đọc hết trong một lần đọc, có thể xuất bản thành một ấn bản riêng |
Nhân vật |
Thường chỉ có 1 – 2 nhân vật
chính, chỉ giới hạn trong cái nhìn của một nhân vật trung tâm |
– Số lượng nhân vật nhiều – Kiểu nhân vật đời thường trong mối quan hệ đa dạng, số phận trọn vẹn với
quá trình phát triển tính cách dài, phức tạp |
Cốt truyện |
Thường đơn giản, cô đúc,
xoay quanh một vài sự kiện chính, dồn nén mâu thuẫn trong một khoảng thời
gian ngắn |
Diễn biến cốt truyện phức
tạp, nhiều tuyến truyện đan xen, xảy ra trong bối cảnh không gian rộng, thời
gian dài |
2.2.2.Đặc điểm
tiểu thuyết hiện đại (so với tiểu thuyết trung đại) |
||
|
Tiểu thuyết trung đại |
Tiểu thuyết hiện đại |
Chữ viết |
Chữ Hán là chủ yếu |
Chữ Quốc ngữ |
Chịu ảnh hưởng |
Văn học Trung Quốc |
Văn học phương Tây |
Kết cấu |
Kết cấu chương hồi |
Kết cấu chương đoạn |
Cốt truyện |
– Cốt truyện tuyến tính – Đặc biệt chú trọng sự kiện và chi tiết đời sống |
– Cốt truyện có thể tuyến tính hoặc phi tuyến tính – Đặc biệt chú trọng đến thế giới nội tâm và sự phát triển tính cách nhân
vật |
Điểm nhìn |
Ngôi thứ ba toàn tri |
Điểm nhìn đa dạng (ngôi thứ
nhất hoặc thứ ba toàn tri, hạn tri, hoặc có sự kết hợp, di chuyển điểm nhìn) |
Ngôn ngữ |
Mang tính cách điệu, trau
chuốt |
Dung nạp lời nói hằng ngày
của mọi lớp người, kể cả tiếng lóng |
2.2.3.
Sự kết hợp ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết
– Ngôn ngữ người kể chuyện phản ánh: thái độ, quan điểm
của người kể chuyện với câu chuyện và nhân vật.
– Ngôn ngữ nhân vật
phản ánh: xuất thân, nền tảng văn hoá, tính cách, thái độ của nhân vật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét