Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025



 ĐÊM CÔN SƠN

- Trần Đăng Khoa - 

Tiếng chim vách núi nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm
Nghĩ gì, ông vẫn ngồi yên lưng đền...
...Bỗng đâu vang tiếng sấm rền
Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương
Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm
Em nghe có tiếng thơ ngâm...
*
Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...

1968

DÀN Ý PHÂN TÍCH

1. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa – thần đồng thơ ca, giọng thơ giàu cảm xúc, kết hợp hồn nhiên tuổi thơ với chiều sâu lịch sử, dân tộc.

  • Giới thiệu bài thơ Đêm Côn Sơn – sáng tác 1968, in đậm dấu ấn truyền thống và thời đại.

2. Thân bài

a. Bức tranh thiên nhiên Côn Sơn tĩnh lặng, huyền ảo

  • Âm thanh: tiếng chim, tiếng suối rì rầm xa gần.

  • Hình ảnh: lá đa rơi mỏng, nghiêng; ông Bụt trầm mặc.

  • Nghệ thuật: gợi tả tinh tế, giàu nhạc điệu, gợi không gian thanh u, đượm màu cổ tích.

b. Sự hòa nhập giữa con người và lịch sử, tâm linh

  • Cảnh vật chợt biến động: tiếng sấm, tiếng chuông, gió nổi, suối ào ào.

  • Hình ảnh Nguyễn Trãi: “Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm” → gợi sự trở về của lịch sử, niềm kính ngưỡng tiền nhân.

  • Nghệ thuật: kết hợp thực và ảo, hiện tại và quá khứ, tạo không khí linh thiêng.

c. Âm hưởng thời đại chiến tranh

  • Dòng thơ cuối: “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya…” → thực tại khốc liệt xen vào giấc mộng trữ tình.

  • Ý nghĩa: thơ không thoát ly mà gắn bó với hiện tại đất nước, nỗi đau và khát vọng hòa bình.

d. Đặc sắc nghệ thuật

  • Kết hợp bút pháp cổ điển – hiện đại.

  • Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu biến đổi linh hoạt.

  • Kết cấu tương phản: tĩnh – động, xưa – nay, trữ tình – sử thi.

  • Lời thơ vừa hồn nhiên, vừa sâu lắng triết lý.

3. Kết bài

  • Khẳng định: Đêm Côn Sơn là thi phẩm giàu giá trị thẩm mĩ, kết tinh tâm hồn thơ Trần Đăng Khoa.

  • Gợi mở: thơ ca khi gắn với thiên nhiên, lịch sử và hiện tại chiến tranh đã trở thành tiếng nói nhân văn, bất diệt.


BÀI VIẾT THAM KHẢO

    Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Trần Đăng Khoa được biết đến như “thần đồng thi ca” với những sáng tác hồn nhiên mà giàu chiều sâu. Bài thơ Đêm Côn Sơn (1968) là một minh chứng rõ rệt: từ bức tranh thiên nhiên cổ kính, nhà thơ mở ra không gian lịch sử linh thiêng và gắn nó với hiện tại chiến tranh đầy biến động, tạo nên thi phẩm độc đáo vừa mang âm hưởng trữ tình, vừa thấm đượm khí phách sử thi.

    Trước hết, bài thơ gợi ra vẻ đẹp yên tĩnh, huyền ảo của đêm Côn Sơn. Những âm thanh quen thuộc như “tiếng chim vách núi nhỏ dần”, “rì rầm tiếng suối khi gần khi xa” vang lên êm đềm, như khúc nhạc ru của núi rừng. Cảnh vật trở nên nhẹ nhàng, mỏng manh với “cái lá đa” rơi nghiêng, “ông Bụt ngồi nghiêm” trầm mặc. Cách miêu tả giàu chất hội họa và nhạc điệu khiến thiên nhiên Côn Sơn hiện lên như một cõi cổ tích, gợi nhớ đến thơ Nguyễn Trãi xưa. Theo Hoài Thanh, thơ ca hay phải là nơi “tấm lòng con người gặp gỡ cùng hồn thiêng đất nước”. Ở đây, thiên nhiên Côn Sơn đã mang đậm màu sắc linh thiêng ấy.

    Không dừng lại ở bức tranh tĩnh lặng, bài thơ đột ngột chuyển động: “Bỗng đâu vang tiếng sấm rền…”, “rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào”. Cảnh tượng trở nên huyền bí và dữ dội, như đánh thức những vỉa tầng lịch sử. Trong không gian ấy, hình ảnh “hồn Nguyễn Trãi” hiện về, để lại dư vang “tiếng thơ ngâm” giữa đêm trăng. Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn – như trở lại, đồng hành với hậu thế. Thơ Trần Đăng Khoa ở đây không chỉ là cái nhìn tuổi thơ trong sáng mà còn là sự tri ân sâu xa đối với truyền thống văn hóa, lịch sử.

    Đặc biệt, hai câu thơ cuối bất ngờ đưa người đọc trở về với hiện tại chiến tranh: “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya…”. Hình ảnh nòng pháo lạnh lẽo trong màn sương gợi sự khốc liệt, đau thương, đồng thời khẳng định thơ ca không thoát ly hiện thực. Giấc mộng trữ tình, lịch sử và cổ tích được đặt trong bối cảnh kháng chiến, làm nổi bật khát vọng hòa bình và sức sống kiên cường của dân tộc.

    Về nghệ thuật, Đêm Côn Sơn kết hợp bút pháp cổ điển và hiện đại, tạo nên kết cấu đặc biệt: tĩnh – động, xưa – nay, hư – thực đan xen. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu khi tha thiết, khi dồn dập, phù hợp với mạch cảm xúc. Lời thơ mang giọng hồn nhiên của tuổi thơ nhưng lại ẩn chứa chiều sâu triết lý, đúng như nhận xét của Xuân Diệu: “Trần Đăng Khoa tuy nhỏ tuổi mà thơ đã có một chiều sâu không ngờ”.

    Tóm lại, Đêm Côn Sơn không chỉ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là bản giao hưởng của lịch sử, tâm linh và hiện tại chiến tranh. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Trần Đăng Khoa: hồn nhiên mà sâu sắc, giản dị mà giàu sức gợi. Đọc thơ, ta càng thấy rõ sức mạnh của thi ca – sức mạnh gắn con người với truyền thống, với hiện thực, và với niềm tin bất diệt vào sự sống, hòa bình.



 

BỨC HỌA ĐỒNG QUÊ

- Đỗ Toàn Diện - 

Con cua
con cua…
chẳng chịu xếp hàng
còn hay chọc bạn
nghênh ngang mắt trừng.

Con nhái
con nhái…
cứ nhảy lung tung
kêu la inh ỏi
điếc tai láng giềng

Cào cào
cào cào…
giã gạo rất siêng
ao xanh áo đỏ
như tiên giáng trần.

Cụ cóc
cụ cóc…
tư lự buồn phiền
tiên tri báo trước
trời liền đổ mưa.

Nắng vàng
nắng vàng…
ấm áp sớm trưa
gọi ong bướm đến
nô đùa cùng hoa.

Gió đồng
gió đồng…
gọi lúa song ca
sáo diều vi vút
ngân nga lưng trời.

Bức tranh quê
đẹp tuyệt vời!
bàn tay tạo hoá
dâng người mà nên.

12/5/2018

Dàn ý phân tích

Mở bài

  • Giới thiệu về thơ ca viết về nông thôn – nguồn cảm hứng bất tận trong văn học Việt Nam.

  • Dẫn dắt đến bài thơ Bức họa đồng quê (Đỗ Toàn Diện) – một bức tranh thôn dã sinh động, hồn nhiên, giàu âm điệu.

Thân bài

  1. Nội dung

    • Khắc họa một bức tranh làng quê đầy sức sống:

      • Hình ảnh con cua, con nhái, cào cào, cụ cóc… được nhân hóa, trở nên sinh động, gần gũi.

      • Hình ảnh nắng vàng, gió đồng, ong bướm, sáo diều tạo nên nhạc điệu và gam màu rộn rã.

    • Bức tranh quê vừa giản dị, thân thuộc, vừa gợi không khí tuổi thơ, niềm vui gắn bó với đồng ruộng.

    • Thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự trân trọng vẻ đẹp do tạo hóa ban tặng.

  2. Nghệ thuật

    • Thể thơ tự do, ngắn gọn, ngắt nhịp nhanh, giàu tính nhạc.

    • Biện pháp nhân hóa (cua nghênh ngang, nhái kêu la, cào cào giã gạo, cụ cóc tư lự…) làm thế giới đồng quê như đang trò chuyện cùng con người.

    • Điệp từ, lối gọi tên thân mật (“con cua, con cua…”, “cào cào, cào cào…”) tạo nhịp điệu vui tươi, hồn nhiên.

    • Ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính gợi hình, gợi cảm.

  3. Ý nghĩa

    • Ca ngợi vẻ đẹp bình dị nhưng giàu sức sống của nông thôn Việt Nam.

    • Gợi nhắc về tuổi thơ, tình yêu quê hương, gắn bó với thiên nhiên.

    • Thể hiện tâm hồn trong sáng, tấm lòng trân trọng những điều nhỏ bé của tác giả.

Kết bài

  • Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

  • Mở rộng: Bức họa đồng quê không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là “tiếng hát đồng dao” của tâm hồn, nuôi dưỡng tình yêu quê hương trong mỗi người.

Bài viết tham khảo

    Trong thơ ca Việt Nam, làng quê luôn là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng tâm hồn thi sĩ. Hoài Thanh từng viết trong Thi nhân Việt Nam: “Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là nguồn sữa ngọt ngào nuôi dưỡng hồn thơ.” Thật vậy, từ ca dao, dân ca đến thơ hiện đại, hình ảnh đồng quê luôn hiện lên bình dị mà giàu sức gợi. Bài thơ Bức họa đồng quê của Đỗ Toàn Diện cũng nằm trong mạch nguồn ấy – một bức tranh nông thôn trong trẻo, hồn nhiên mà thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, quê hương.

     Thế giới đồng quê hiện ra trước hết qua những hình ảnh côn trùng quen thuộc: con cua “nghênh ngang mắt trừng”, con nhái “nhảy lung tung, kêu la inh ỏi”, cào cào thì “giã gạo rất siêng, áo xanh áo đỏ như tiên giáng trần”. Chỉ bằng vài nét phác thảo, tác giả đã nhân hóa sự vật, khiến chúng trở nên sống động như có tính cách riêng. Đặc biệt, “cụ cóc tư lự buồn phiền, tiên tri báo trước trời liền đổ mưa” gợi nhắc niềm tin dân gian lâu đời, làm bức tranh thêm gần gũi. Như Xuân Diệu từng nhận xét: “Thơ là tiếng nói đồng điệu của vạn vật” – ở đây, côn trùng, cây cỏ, thiên nhiên đều cất tiếng trò chuyện cùng con người.

       Không chỉ dừng ở côn trùng, bức tranh còn rộn ràng sắc màu và âm thanh thiên nhiên: “nắng vàng ấm áp sớm trưa”, “gió đồng gọi lúa song ca, sáo diều vi vút ngân nga lưng trời”. Đó không chỉ là cảnh sắc quen thuộc của làng quê mà còn là nhạc điệu tuổi thơ, là khung trời kỷ niệm của bao thế hệ. Ta như nghe thấy tiếng sáo diều chênh chao trong gió, thấy lúa đang thì thầm với đất trời, thấy ong bướm vui đùa cùng hoa lá. Cái nhìn của nhà thơ vì thế không chỉ là cái nhìn của một người quan sát mà còn là cái nhìn chan chứa yêu thương, đồng cảm.

    Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ tự do, kết hợp điệp từ (“con cua, con cua…”, “cào cào, cào cào…”) tạo nhịp điệu dí dỏm, hồn nhiên, gợi nhớ đến âm hưởng đồng dao. Biện pháp nhân hóa được dùng liên tục khiến sự vật trở nên sinh động, gần gũi. Ngôn ngữ mộc mạc mà giàu nhạc tính, đưa người đọc trở về với bầu không khí trong lành của đồng quê. Đúng như Chế Lan Viên từng khẳng định: “Thơ ca là sự sống được chưng cất qua cảm xúc và trí tưởng tượng của nhà thơ”. Cái tài của Đỗ Toàn Diện chính là đã chưng cất được vẻ đẹp bình dị thành một bức tranh giàu chất thơ.

    Bức họa đồng quê không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mà còn là một “tiếng hát tâm hồn”. Nó gợi nhắc mỗi người về tình yêu quê hương, về tuổi thơ trong trẻo, về niềm hạnh phúc khi hòa mình với thiên nhiên. Bài thơ, vì thế, mang giá trị nhân văn sâu sắc: giúp ta biết trân trọng những điều nhỏ bé, nuôi dưỡng tâm hồn thanh sạch giữa nhịp sống hiện đại.

    Có thể nói, bằng ngôn ngữ hồn nhiên, giàu nhạc điệu, Đỗ Toàn Diện đã tạo nên một “khúc đồng dao mới” trong thơ ca. Bức tranh quê hiện lên vừa gần gũi, vừa rộn rã sức sống, để từ đó khơi dậy nơi người đọc niềm yêu thương tha thiết dành cho quê hương đất nước.




 NẮNG MỚI

- Lưu Trọng Lư -

Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác, gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.

Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.

Hình dáng mẹ tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.

DÀN Ý PHÂN TÍCH

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Lưu Trọng Lư: một trong những cây bút tiên phong của phong trào Thơ mới, hồn thơ dạt dào cảm xúc, đậm chất trữ tình.

  • Giới thiệu bài thơ Nắng mới: tác phẩm nổi bật trong mảng thơ viết về gia đình, quê hương, gắn với tình mẫu tử sâu nặng.

  • Dẫn vấn đề nghị luận: đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

II. Thân bài

  1. Nội dung

  • Bức tranh thiên nhiên gợi nhớ quá khứ:

    • “Nắng mới hắt bên song”, tiếng gà trưa, ánh nắng vàng – tất cả khơi gợi dòng hồi ức.

    • Không gian vừa hiện thực, vừa nhuốm màu hoài niệm.

  • Nỗi nhớ về mẹ:

    • Kí ức tuổi thơ hiện lên qua hình ảnh người mẹ dịu dàng, tần tảo.

    • Chi tiết “áo đỏ người đưa trước giậu phơi” gợi một kỉ niệm bình dị nhưng in sâu trong tâm trí con.

    • Nét cười của mẹ vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức, trở thành điểm sáng ấm áp giữa nỗi buồn mất mát.

  • Cảm xúc chủ đạo: nỗi buồn thương, hoài niệm dĩ vãng, tình yêu thương tha thiết với mẹ.

    • Như Xuân Diệu từng nói: “Thơ là tiếng nói của tình cảm”, Nắng mới đã kết tinh tình cảm mẫu tử – nỗi nhớ thương bất tận trong lòng nhà thơ.

  1. Nghệ thuật

  • Thể thơ bốn chữ: ngắn gọn, nhịp nhàng, phù hợp gợi dòng cảm xúc dồn dập, thổn thức.

  • Ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi: “áo đỏ”, “nét cười đen nhánh” → hình ảnh đời thường nhưng in đậm dấu ấn kỉ niệm.

  • Bút pháp gợi tả tinh tế: thiên nhiên, cảnh vật trở thành điểm tựa để gợi nhớ con người.

  • Cấu tứ hồi tưởng: từ cảnh hiện tại (nắng mới) dẫn về quá khứ (mẹ tuổi thơ), rồi trở về với hiện tại trong nỗi nhớ.

III. Kết bài

  • Khẳng định: Nắng mới không chỉ là bài thơ viết về tình mẹ mà còn là khúc ca của nỗi nhớ, sự tri ân.

  • Giá trị nội dung và nghệ thuật: thể hiện đặc trưng hồn thơ Lưu Trọng Lư – trữ tình, hoài niệm, chan chứa yêu thương.

  • Liên hệ: Bài thơ để lại cho ta suy ngẫm sâu sắc về tình mẫu tử, một tình cảm thiêng liêng bất diệt.


BÀI VIẾT THAM KHẢO

        Lưu Trọng Lư là một trong những thi sĩ mở đầu cho phong trào Thơ mới 1932–1945. Thơ ông chan chứa cảm xúc, dạt dào nhạc điệu, đặc biệt là những rung động tinh tế trước thiên nhiên và con người. Trong mạch nguồn thơ viết về gia đình, bài thơ Nắng mới được xem là một tiếng lòng tha thiết, khi nhà thơ hồi tưởng về tuổi thơ và hình bóng người mẹ đã khuất.

        Bài thơ mở đầu bằng một khung cảnh thiên nhiên rất bình dị:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác, gà trưa gáy não nùng...”
Ánh nắng mới, tiếng gà trưa, hương vị của không gian làng quê gợi dậy những lớp ký ức. Nhà thơ thổn thức nhớ lại “thời dĩ vãng”, những ngày tháng ấu thơ không còn nữa. Thiên nhiên như một chất xúc tác làm bừng sống dậy bao kỉ niệm yêu thương.

        Trong dòng hồi tưởng ấy, hình ảnh người mẹ hiện về thật thân thương:
“Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời...
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.”
        Đó là hình ảnh quen thuộc của người mẹ nông thôn, tần tảo trong đời thường. Chiếc áo đỏ phơi ngoài giậu trở thành một dấu ấn không phai, gắn liền với tuổi thơ của đứa con. Nhà thơ không nhớ những điều to tát, chỉ nhớ một chi tiết rất đỗi giản đơn, nhưng chính điều đó lại tạo nên sự chân thật, xúc động.

          Kí ức ấy còn in đậm nụ cười của mẹ:
“Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.”
Đó là nụ cười bình dị, hồn hậu, gắn với lao động và ánh nắng trưa hè. Mẹ hiện lên không phải là tượng đài xa vời, mà là một bóng dáng gần gũi, thân thiết. Như Xuân Diệu từng nói: “Thơ ca trước hết là sự rung động của trái tim”, Nắng mới rung động bởi tình mẫu tử bất tử, bởi nỗi nhớ thương thăm thẳm trong tâm hồn người con.

        Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể bốn chữ với nhịp điệu dồn dập, ngắn gọn, rất phù hợp để bộc lộ cảm xúc chợt đến, chợt dâng tràn. Ngôn ngữ giản dị, giàu sức gợi, lấy cảnh để khơi tình, lấy chi tiết nhỏ để khắc họa tình cảm lớn. Cấu tứ hồi tưởng từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại đã tạo cho bài thơ sự liền mạch, trọn vẹn.

        Nắng mới không chỉ là nỗi nhớ về mẹ, mà còn là khúc ca tình cảm chan chứa của hồn thơ Lưu Trọng Lư. Qua đó, ta thấy được sự thiêng liêng, bất tử của tình mẫu tử – một trong những đề tài nhân văn bất diệt của văn học. Đọc bài thơ, mỗi người như được thức tỉnh trong nỗi nhớ, để biết yêu thương và trân trọng hơn bóng hình người mẹ trong đời mình.


Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025


 

ĐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN

- Hàn Mặc Tử - 

Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch,
Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay...
Đây là hương quý trọng thấm trong mây
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm,
Câu tàn tạ, không khen long cả phiếm:
Bút Xuân Thu mùa nhạc đến vừa khi
Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi:
Cây bằng gấm, và lòng sông toàn ngọc!
Và đầu hôm một vì sao liền mọc
Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!
Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho
Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo.
Ta chấp hai tay lạy quỳ hoan hảo,
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian -
Để vừa dâng vừa hiện bốn mùa xuân
Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế.

Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ
Của phường trai mê mẩn khí thanh cao
Phượng hoàng bay trong một tối trăng sao
Mà ánh sáng không còn khiêm nhượng nữa;
Đương cầu xin ọc thơ ra đường sữa,
Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau...
Trên chín tầng, diêu động cả trân châu
Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết,
Nhịp song đôi: này đây, cung cầm nguyệt
Ướp lời thơ thành phước lộc đường tu
Tôi van lơn, thầm nguyện chúa Giê-su
Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối,
Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng:
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng

🌿 Dàn ý phân tích

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử: gương mặt độc đáo của phong trào Thơ mới, được mệnh danh là “kỳ dị và tài hoa”, “một hiện tượng lạ lùng” (Hoài Thanh).

  • Giới thiệu bài thơ Đêm xuân cầu nguyện: tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác tôn giáo của ông, thể hiện niềm khát khao giao cảm với Chúa, với cõi thiêng, trong trạng thái thăng hoa vừa đau đớn vừa ngất ngây.

II. Thân bài

  1. Nội dung

    • Khung cảnh đêm xuân huyền diệu, thấm đẫm niềm tin tôn giáo

      • Hình ảnh: “nguyệt bạch”, “đường trăng xa”, “ánh sáng tuyệt vời bay” → không gian thanh khiết, linh thiêng.

      • Niềm tin tôn giáo được thổi hồn vào cảnh vật: “cây bằng gấm”, “lòng sông toàn ngọc”, “sao mầu nhiệm”…

    • Cảm xúc chiêm bái, nguyện cầu của thi sĩ

      • Tư thế: “chấp hai tay lạy quỳ”, “ngửa trông cao, cầu nguyện”… → trạng thái sùng tín, thành tâm.

      • Cầu xin Chúa ban ơn, tha thứ cho “câu thơ tội lỗi”, biến thơ thành lời nguyện.

    • Tâm trạng mâu thuẫn: ngất ngây và đau đớn

      • Thi sĩ vừa “no nê, bưa rồi” trong ánh sáng thiêng liêng, vừa “ngất đi trong khoái lạc của hồn đau”.

      • Sự hòa quyện giữa tôn giáo, tình yêu, và cảm thức bi kịch thân phận.

  2. Nghệ thuật

    • Ngôn ngữ giàu tính huyền ảo, nhiều hình ảnh siêu thực: “đường sữa”, “cây bằng gấm”, “lòng sông toàn ngọc”…

    • Nhạc điệu phóng túng, khi trầm lắng trang nghiêm, khi bùng lên cuồng nhiệt.

    • Thủ pháp đối lập, cực tả: vừa “hoan hảo” vừa “tội lỗi”, vừa “khoái lạc” vừa “hồn đau”.

    • Đậm màu sắc tôn giáo – siêu linh, pha lẫn chất thơ tượng trưng, siêu thực.

  3. Đánh giá – mở rộng

    • Đêm xuân cầu nguyện là một thi phẩm tiêu biểu cho giai đoạn “tôn giáo” trong sáng tác Hàn Mặc Tử, kết hợp giữa thơ và lời kinh, giữa nghệ thuật và đức tin.

    • Hoài Thanh từng nói: “Hàn Mặc Tử đã đem đến cho Thơ mới những nguồn cảm xúc chưa từng có”. Bài thơ minh chứng cho sự “chưa từng có” ấy: thơ ca hóa thành lời cầu nguyện.

    • Ý nghĩa: bộc lộ khát vọng siêu thoát, khát khao hướng tới ánh sáng tinh khiết, đồng thời phơi bày bi kịch của thi sĩ – một tâm hồn khát khao vĩnh cửu nhưng bị giằng xé bởi thân phận.

III. Kết bài

  • Khẳng định: Đêm xuân cầu nguyện vừa là khúc ca tôn giáo, vừa là lời tự sự đầy bi kịch của Hàn Mặc Tử.

  • Đặt trong phong trào Thơ mới: tác phẩm cho thấy phong cách độc đáo, đầy bí ẩn và siêu linh, khẳng định vị trí đặc biệt của Hàn Mặc Tử trên thi đàn Việt Nam.


🌸 Bài viết tham khảo ( khoảng 600 chữ)

    Trong phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử xuất hiện như một hiện tượng đặc biệt, với một “cõi thơ lạ lùng” (Hoài Thanh). Nếu nhiều thi sĩ cùng thời say đắm tình yêu, thiên nhiên và cái tôi cá nhân, thì Hàn Mặc Tử lại hướng tới những miền cảm xúc cực đoan, vừa đau đớn vừa cuồng nhiệt, vừa thánh thiện vừa tội lỗi. Bài thơ Đêm xuân cầu nguyện là minh chứng tiêu biểu cho giai đoạn thơ tôn giáo, nơi thi sĩ biến thơ ca thành lời khẩn cầu tha thiết gửi tới cõi thiêng.

    Mở đầu bài thơ, cảnh đêm xuân hiện ra thanh khiết, huyền ảo: “Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch, / Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay”. Ánh trăng và ánh sáng được nâng lên thành biểu tượng thiêng liêng, ngời sáng bởi “phép lạ của đức tin”. Không gian được khoác lên chiếc áo siêu linh: “cây bằng gấm, lòng sông toàn ngọc, vì sao mầu nhiệm”… Cảnh vật trở nên khác thường, như một dấu hiệu tôn giáo, đưa hồn người vượt thoát khỏi thực tại.

    Trong khung cảnh ấy, thi sĩ bộc lộ trạng thái sùng tín mãnh liệt. Ông “chấp hai tay lạy quỳ hoan hảo”, “ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian”. Thơ ở đây không còn là lời ngâm vịnh thông thường, mà đã hóa thân thành lời kinh cầu. Nhà thơ xin “Chúa Giê-su ban ơn xuống”, xin “thứ tha những câu thơ tội lỗi” để thơ trở thành sự giao cảm, dâng hiến. Điều này làm nên cái lạ của Hàn Mặc Tử: đưa nghệ thuật hòa cùng đức tin, biến thi ca thành một hành vi tôn giáo.

    Đặc sắc hơn cả là sự giằng xé trong tâm hồn thi sĩ. Ông vừa “no nê, bưa rồi” trong ánh sáng siêu linh, vừa “ngất đi trong khoái lạc của hồn đau”. Niềm tin tôn giáo mang lại khoái lạc tinh thần, nhưng thân phận hữu hạn lại gieo đau đớn. Cảm xúc ấy vừa cực đoan, vừa bi kịch, thể hiện đúng như Hoài Thanh từng nói: “Thơ Hàn Mặc Tử là những tiếng kêu thương rên rỉ, nhưng chứa chan ánh sáng lạ thường”.

    Về nghệ thuật, bài thơ giàu màu sắc tượng trưng, siêu thực, với những hình ảnh phi thường: “đường sữa”, “cung cầm nguyệt”, “trân châu diêu động”. Nhạc điệu lúc ngân vang trang nghiêm, lúc cuồng loạn da diết, phù hợp với trạng thái tâm linh ngất ngây. Thủ pháp đối lập cũng rất nổi bật: “hoan hảo” – “tội lỗi”, “khoái lạc” – “hồn đau”, càng làm bật lên những mâu thuẫn nội tâm dữ dội.

    Như vậy, Đêm xuân cầu nguyện vừa là lời ca tụng đức tin, vừa là khúc bi ca cho số phận của một thi sĩ mang bệnh tật, khát khao vĩnh cửu nhưng bị đày đọa bởi kiếp người. Tác phẩm khẳng định phong cách riêng có của Hàn Mặc Tử: siêu linh, mãnh liệt, đầy mâu thuẫn và cực độ. Chính sự khác thường ấy đã khiến ông trở thành một trong những đỉnh cao đặc biệt nhất của phong trào Thơ mới.



 

RẰM THÁNG BẢY

- Anh Thơ -

Gió hiu hắt gieo vàng muôn cánh lá,
Trời âm u mây xám bóng sương chiều.
Làng xóm ngập nhà nhà trong khói toả,
Vẳng đưa lời khóc mã lạnh hiu hiu.

Trong chùa, điện hương đèn nghi ngút sáng,
Tiếng mõ, chuông hoà nhịp trống bên đình.
Lời cầu cúng truyền theo làn khói thoảng,
Quyến cô hồn nương gió lại nghe kinh.

Ngoài đê rộng bồ đài nghiêng đổ cháo,
Lễ chúng sinh từng bọn một ăn mày.
Cùng lẳng lặng như bóng ma buồn não,
Dắt nhau tìm nơi cúng để xin may.

🌸 Dàn ý phân tích

I. Mở bài

  • Giới thiệu nhà thơ Anh Thơ: một trong những cây bút nữ hiếm hoi của phong trào Thơ mới; thơ giàu cảm xúc, chú trọng khắc họa cảnh vật, phong tục nông thôn.

  • Giới thiệu bài thơ Rằm tháng bảy: gợi lại không khí lễ Vu lan, lễ xá tội vong nhân – một nét đẹp tín ngưỡng của làng quê Việt, đồng thời bộc lộ nỗi buồn nhân sinh.

II. Thân bài

  1. Nội dung

    • Bức tranh thiên nhiên, làng quê ngày rằm tháng bảy

      • Cảnh vật nhuốm màu buồn: “gió hiu hắt”, “mây xám”, “sương chiều”, “khói toả”.

      • Làng xóm, ngôi chùa, đình làng hòa trong không khí trang nghiêm, thiêng liêng.

    • Không khí lễ hội, tín ngưỡng dân gian

      • Trong chùa: “tiếng mõ, chuông”, “hương đèn nghi ngút”, “lời kinh” → khung cảnh tâm linh, huyền ảo.

      • Ngoài đê: “cháo, bồ đài”, “lễ chúng sinh” → nghi lễ bố thí cho cô hồn, người nghèo đói.

    • Nỗi buồn nhân sinh, lòng trắc ẩn

      • Hình ảnh những “bóng ma buồn não”, “ăn mày lẳng lặng” → ranh giới mong manh giữa người sống và hồn người chết.

      • Gợi sự thương cảm, xót xa trước kiếp người cơ cực, mong manh, dễ rơi vào quên lãng.

  2. Nghệ thuật

    • Miêu tả tinh tế, giàu chất tạo hình: cảnh chiều buồn, không gian chùa chiền, đám rước lễ.

    • Ngôn ngữ gợi cảm, sử dụng nhiều từ ngữ gợi âm thanh và sắc thái u buồn: “hiu hắt”, “âm u”, “lạnh hiu hiu”.

    • Bút pháp hiện thực xen lãng mạn: vừa tả cảnh sinh hoạt dân gian cụ thể, vừa gợi triết lí, nỗi buồn nhân sinh.

    • Nhạc điệu thơ êm ái, có lúc u buồn, trầm mặc, phù hợp với không khí lễ rằm.

  3. Đánh giá – mở rộng

    • Rằm tháng bảy không chỉ là một bức tranh lễ hội dân gian mà còn thấm đẫm tình thương đối với kiếp người cơ cực.

    • Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét: “Thơ Anh Thơ thường là những bức tranh quê, êm dịu mà u buồn”.

    • Bài thơ góp phần khẳng định phong cách riêng của Anh Thơ: chú trọng tả cảnh sinh hoạt thôn quê, ẩn chứa tình cảm nhân đạo.

III. Kết bài

  • Khẳng định: Rằm tháng bảy là một thi phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Anh Thơ: miêu tả cảnh quê, thấm đẫm nỗi buồn nhân sinh.

  • Ý nghĩa: tác phẩm vừa lưu giữ một phong tục đẹp, vừa gợi lòng trắc ẩn, sự sẻ chia với con người trong kiếp sống nhiều khổ đau.


🌸 Bài viết tham khảo (khoảng 600 chữ)

    Trong phong trào Thơ mới, bên cạnh những tiếng thơ nồng nàn tình yêu hay u uất nhân sinh, Anh Thơ xuất hiện như một hồn thơ nữ hiếm hoi, đem đến cho thi đàn nhiều bức tranh thôn quê dịu dàng mà thấm buồn. Hoài Thanh từng nhận xét: “Thơ Anh Thơ thường là những bức tranh quê, êm dịu mà u buồn”. Bài thơ Rằm tháng bảy (1939) là minh chứng tiêu biểu, khi nhà thơ tái hiện không khí lễ Vu lan – lễ xá tội vong nhân, một nét đẹp tín ngưỡng gắn bó với làng quê Việt.

    Mở đầu, bài thơ đã gợi nên cảnh buồn của một chiều rằm tháng bảy: “gió hiu hắt gieo vàng muôn cánh lá”, “trời âm u mây xám bóng sương chiều”. Không gian mờ đục, hơi khói phủ trùm làng xóm, gợi cảm giác bảng lảng, huyền ảo. Những câu thơ thấm đẫm nỗi buồn man mác, như chuẩn bị cho một khung cảnh tâm linh đầy linh thiêng.

    Trong chùa, nghi thức diễn ra trang trọng: “điện hương đèn nghi ngút sáng”, “tiếng mõ, chuông hoà nhịp trống”. Khói hương bay quyện cùng lời kinh cầu siêu, như truyền tới cô hồn phiêu lãng. Bức tranh ấy vừa hiện thực, vừa huyền bí, vừa gợi lòng người suy ngẫm về kiếp sống mong manh. Bên ngoài, cảnh bố thí cháo hoa cho chúng sinh cũng được miêu tả: “ngoài đê rộng bồ đài nghiêng đổ cháo, lễ chúng sinh từng bọn một ăn mày”. Những con người khốn khổ, rách rưới chen lẫn vào lễ cúng, “lẳng lặng như bóng ma buồn não”, càng khiến ranh giới giữa cõi âm và cõi dương trở nên mờ nhạt.

    Ở đây, Anh Thơ không chỉ miêu tả một phong tục quen thuộc của làng quê, mà còn gửi gắm nỗi niềm thương cảm đối với những kiếp người cơ cực. Những “ăn mày” trong thơ không chỉ là hiện thực xã hội, mà còn gợi nhắc về sự bấp bênh, ngắn ngủi của đời người. Như nhà phê bình Lưu Khánh Thơ từng viết: “Thơ Anh Thơ nhìn cảnh mà nghĩ người, sau bức tranh thôn quê thường thấp thoáng một nỗi buồn nhân sinh”.

    Về nghệ thuật, bài thơ nổi bật ở bút pháp tả cảnh tinh tế, giàu chất tạo hình. Các từ ngữ “hiu hắt”, “âm u”, “lạnh hiu hiu” gợi nhạc điệu buồn thương, phù hợp với không khí lễ rằm tháng bảy. Sự đan xen giữa âm thanh (chuông, mõ, trống), màu sắc (khói, mây xám), không gian (chùa, đê rộng, làng xóm) đã tạo nên một bức tranh phong tục chân thực mà thấm đẫm chất thơ.

    Có thể nói, Rằm tháng bảy không chỉ lưu giữ nét đẹp tín ngưỡng dân gian, mà còn gửi gắm cái nhìn nhân đạo của nhà thơ. Trong nỗi u buồn phảng phất, ta vẫn nhận ra một tấm lòng trắc ẩn, thương cảm với những phận đời lầm than. Bài thơ vì thế vừa mang giá trị nghệ thuật, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần khẳng định phong cách thơ đặc trưng của Anh Thơ: miêu tả cảnh quê giàu tính tạo hình, ẩn chứa nỗi buồn nhân sinh.




 LỜI CON ĐƯỜNG QUÊ

- Tế Hanh -

Tôi, con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang

Từ đấy mình tôi cỏ mọc đầy
Dọc lòng hoa dại ngát hương lây
Tôi ôm đám lúa, quanh nương sắn
Bao cái ao rêu nước đục lầy

Những buổi mai tươi nắng chói xa
Hồn tôi lóng lánh ánh dương sa
Những chiều êm ả tôi thư thái
Như kẻ nông phu trở lại nhà

Tôi đă từng đau với nắng hè
Thịt da rạn nứt bởi khô se
Đã từng điêu đứng khi mưa lụt
Tôi lở, thân tôi rã bốn bề

Chia sẻ cùng người nỗi ấm no
Khi mùa màng được, nỗi buồn lo
Khi mùa màng mất. Tôi vui cả
Với những tình quê buổi hẹn hò

Tôi sống mê man tránh tẻ buồn
Miệt mài, hể hả, đắm say luôn
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất, hương đồng chẳng ngớt tuôn...

1937

🌿 Dàn ý phân tích

I. Mở bài

  • Giới thiệu Tế Hanh: một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới; thơ ông gắn bó thiết tha với làng quê, mang “hồn hậu, mộc mạc mà tinh tế” (Hoài Thanh).

  • Giới thiệu bài thơ Lời con đường quê (1937): tiếng nói nhân cách hóa của con đường làng – chứng nhân gắn bó với thiên nhiên, con người, lao động và tình quê.

II. Thân bài

  1. Nội dung

    • Con đường quê – hình ảnh gắn bó với cảnh sắc nông thôn

      • Đường nhỏ “chạy lang thang”, “hoa dại”, “lúa”, “nương sắn”, “ao rêu” → thiên nhiên gần gũi, mộc mạc.

      • Sáng nắng, chiều êm, bão lũ, nắng hè… con đường hiện diện trong mọi đổi thay của quê hương.

    • Con đường quê – chứng nhân của đời sống lao động

      • Chia sẻ nỗi nhọc nhằn và niềm vui của người nông dân: mùa được thì “ấm no”, mùa mất thì “buồn lo”.

      • Đường là nơi lao động trở về, nơi “buổi hẹn hò” tình tự, nơi ký thác biết bao kỉ niệm quê hương.

    • Con đường quê – biểu tượng cho hồn quê, tình quê

      • Con đường mang tâm hồn, biết “vui”, biết “buồn”, biết đau với nắng, khổ với mưa → nhân hóa đầy xúc động.

      • Qua hình tượng con đường, Tế Hanh bộc lộ tình yêu tha thiết, gắn bó máu thịt với làng quê Việt Nam.

  2. Nghệ thuật

    • Nhân hóa, ẩn dụ: con đường như một sinh thể biết cảm xúc, suy tư.

    • Ngôn ngữ giản dị, chân chất: “mùi cỏ”, “ao rêu”, “nắng hè”, “mưa lụt” → đậm chất đồng quê.

    • Giọng điệu chân tình, tha thiết: vừa mộc mạc, vừa dào dạt cảm xúc.

    • Bố cục rõ ràng: con đường hiện diện trong thiên nhiên, trong lao động, trong tình yêu, cuối cùng khái quát thành linh hồn quê.

  3. Đánh giá, mở rộng

    • Lời con đường quê góp phần khẳng định phong cách Tế Hanh: nhà thơ của tình yêu quê hương, giản dị mà nồng nàn.

    • Hoài Thanh từng viết trong Thi nhân Việt Nam: “Tế Hanh đã đem đến cho thơ ca một hồn quê thấm thía”. Bài thơ này là một minh chứng.

    • Ý nghĩa: không chỉ ca ngợi con đường làng cụ thể, mà nâng lên thành biểu tượng cho hồn quê Việt Nam – bền bỉ, gắn bó với con người qua bao mùa nắng mưa.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị: Lời con đường quê là khúc ca chân thành, tha thiết về quê hương, đồng thời khắc họa nét phong cách mộc mạc mà tinh tế của Tế Hanh.

  • Đặt trong phong trào Thơ mới: thơ Tế Hanh góp một tiếng nói riêng – không u hoài, không bi lụy, mà chan chứa tình yêu đời, yêu quê.


🌸 Bài viết tham khảo (khoảng 600 chữ)

    Trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945, bên cạnh những hồn thơ lãng mạn đầy u uất, Tế Hanh nổi bật như một tiếng ca trong trẻo, tha thiết với quê hương. Hoài Thanh từng nhận xét: “Tế Hanh đã đem đến cho thơ ca một hồn quê thấm thía”. Quả vậy, bài thơ Lời con đường quê (1937) là một minh chứng, khi thi sĩ nhân cách hóa con đường làng thành một sinh thể giàu tình cảm, gắn bó máu thịt với thiên nhiên, lao động và tình quê Việt Nam.

    Ngay từ đầu, con đường quê hiện ra như một người bạn lang thang, thân thiết: “chạy lang thang”, “hoa dại”, “mùi rơm”, “đám lúa”, “nương sắn”, “ao rêu”. Những hình ảnh quen thuộc của thôn làng Việt Nam được gọi tên bằng thứ ngôn ngữ giản dị mà tinh tế. Thiên nhiên hiện lên vừa hồn nhiên, vừa thấm đẫm nhựa sống, khiến người đọc như ngửi thấy hương đồng, thấy mùi cỏ ngai ngái, nghe tiếng bướm, tiếng chim trên nẻo quê bình dị.

    Con đường ấy không chỉ gắn bó với thiên nhiên, mà còn trở thành chứng nhân cho đời sống lao động. Những buổi sáng “nắng chói xa”, những buổi chiều “êm ả”, con đường như người bạn đồng hành với nông dân, đón họ đi làm, đưa họ trở về. Nó chia sẻ mọi vui buồn của mùa màng: mùa được thì “ấm no”, mùa mất thì “buồn lo”. Không chỉ vậy, con đường còn chứng kiến “những tình quê buổi hẹn hò”, trở thành nơi ký thác bao kỉ niệm tình tự, nơi tâm hồn làng quê gửi gắm niềm vui sống.

    Đặc sắc hơn, Tế Hanh đã nhân hóa con đường, biến nó thành một linh hồn biết cảm xúc, biết “đau với nắng hè”, biết “điêu đứng khi mưa lụt”, biết “hể hả, đắm say”, biết “thâu tê tái trong da thịt”. Chính sự nhân hóa này khiến con đường quê trở thành biểu tượng cho tâm hồn quê hương: chịu thương chịu khó, bền bỉ mà vẫn tràn đầy sức sống. Nhà phê bình Đặng Thai Mai từng nhận xét: “Tế Hanh đã thổi hồn vào cảnh vật, làm cho nó sống động như con người”. Thật đúng với thi phẩm này.

    Bằng giọng thơ mộc mạc, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ giản dị mà thấm thía, Lời con đường quê không chỉ khắc họa cảnh sắc thôn quê, mà còn ca ngợi tình quê đằm thắm. Đây chính là phong cách riêng của Tế Hanh trong phong trào Thơ mới: một hồn thơ chân chất, nồng hậu, không chìm trong u sầu bi lụy, mà hướng đến tình yêu đời, yêu quê, yêu người.

    Như vậy, Lời con đường quê là một trong những thi phẩm đẹp nhất của Tế Hanh về đề tài nông thôn. Con đường trong bài thơ không còn là một khái niệm địa lí, mà trở thành linh hồn, thành nhịp sống, thành tiếng lòng của quê hương. Bài thơ không chỉ làm giàu thêm cho Thơ mới, mà còn để lại cho người đọc hôm nay một tình yêu sâu nặng với làng quê Việt Nam – nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi con người.


 

ĐI GIỮA ĐƯỜNG THƠM

- Huy Cận -

Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm...

Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,

Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng.

 

Đất thêu nắng, bóng tre, rồi bóng phượng

Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu:

Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?

Không biết nữa. - Có chút gì làm ngợp

Trong không khí... hương với màu hoà hợp...

 

Một buổi trưa không biết ở nơi nào,

Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,

Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,

Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự.

Buổi trưa này xưa kia ta đã đi,

Phải cùng chăng? Lòng nhớ rõ làm chi!

 

Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng,

Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng,

Trí vô tư cho da thở hương tình.

Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình

Như sắp nói, nhưng mà không; - khóm trúc

Vừa động lá, ta nhận vào một lúc

Cả không gian hồn hậu rất thơm tho;

Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ...

 

Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng...

Tri bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều:

“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.

Chân đang bước bỗng e dè dừng lại

- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại...

🌿 Dàn ý

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Huy Cận: cây bút tiêu biểu của phong trào Thơ mới, “ông hoàng thơ vũ trụ” (Xuân Diệu), thơ trữ tình – triết lí, giàu cảm xúc.

  • Giới thiệu bài thơ Đi giữa đường thơm: trích trong tập Lửa thiêng (1940), tiêu biểu cho cảm hứng lãng mạn, mộng mơ và cái nhìn tinh tế của Huy Cận về thiên nhiên và tình yêu.

II. Thân bài

  1. Nội dung

    • Bức tranh thiên nhiên làng quê thanh bình, thơ mộng

      • Đường làng có “hoa dại với mùi rơm”, “bóng tre, bóng phượng” → gợi cảm giác gần gũi, dung dị.

      • Thiên nhiên mang màu sắc ca dao: “bướm vàng”, “cu gáy”, gợi về không gian quê xưa, rất đỗi yên bình.

    • Không khí tình yêu thầm lặng, hồn hậu

      • Hình ảnh đôi lứa “chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng”, “nắm tay khẽ”, “khẽ nghiêng mình” → tình cảm kín đáo, e ấp.

      • Hương, màu, gió, nắng hòa hợp, như chứng giám cho tình yêu đôi lứa.

    • Chiêm nghiệm về tình yêu, nỗi buồn man mác

      • Từ cảnh thơ mộng, thi sĩ bất chợt suy tư: “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.

      • Bộc lộ nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu, về sự mong manh của hạnh phúc.

  2. Nghệ thuật

    • Thủ pháp tương giao cảm giác: hương, màu, gió, nắng hòa quyện tạo nên “đường thơm”.

    • Ngôn ngữ tinh tế, nhạc điệu dịu dàng, nhấn mạnh cái “dịu”, “lặng”, “thoảng”.

    • Sử dụng nhiều hình ảnh gần gũi với ca dao, kết hợp chất lãng mạn và triết lí.

    • Giọng điệu vừa hồn nhiên, vừa ngập ngừng, e ấp → đặc trưng phong cách Huy Cận trước Cách mạng.

  3. Đánh giá, mở rộng

    • Đi giữa đường thơm là một trong những bài thơ tình đẹp của Thơ mới, vừa trữ tình, vừa triết lí.

    • Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét: “Thơ Huy Cận đẹp bởi sự hòa quyện giữa cái cụ thể và cái khái quát, cái hồn nhiên và cái triết lí”.

    • Bài thơ góp phần thể hiện tâm hồn Thơ mới: khát khao giao cảm với thiên nhiên, với tình yêu, nhưng cũng ẩn chứa lo âu về sự hữu hạn của đời người.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật: bức tranh quê hương thanh bình, tình yêu hồn hậu, nỗi buồn nhân sinh.

  • Đặt trong phong trào Thơ mới, đây là một nét riêng của Huy Cận: trữ tình – triết lí, vừa đẹp, vừa day dứt.


🌸 Bài viết tham khảo ( khoảng 600 chữ)

    Trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945, Huy Cận được xem là một hồn thơ độc đáo, giàu suy tưởng và trữ tình. Xuân Diệu từng gọi ông là “ông hoàng thơ vũ trụ”, bởi thơ ông mở ra những khoảng không gian rộng lớn, chan chứa triết lí nhân sinh. Bên cạnh những bài thơ buồn mang màu sắc vũ trụ, Huy Cận còn để lại những vần thơ tình dịu dàng, đằm thắm. Đi giữa đường thơm, in trong tập Lửa thiêng (1940), là một minh chứng, khi nhà thơ vẽ nên bức tranh quê thanh bình, tình yêu hồn hậu và những suy tư thẳm sâu về tình cảm con người.

    Bài thơ mở ra khung cảnh làng quê giản dị mà nên thơ: “hoa dại với mùi rơm”, “bóng tre, bóng phượng”, “cu gáy”, “bướm vàng”. Tất cả gợi nên một không gian thân thuộc, mộc mạc, đậm chất dân gian ca dao. Trong sự bình dị ấy, thiên nhiên như được “thêu nắng”, rải đầy hương sắc, làm cho con người đắm chìm trong cảm giác thanh tân, thơm mát. Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định: “Thơ mới là sự tìm về cái tôi cá nhân nhưng vẫn gắn bó thiết tha với hồn quê”. Thật vậy, con đường làng trong thơ Huy Cận vừa thân thương, vừa trở thành “đường thơm”, nâng bước đôi tình nhân.

    Giữa khung cảnh ấy, tình yêu hiện ra thật dịu dàng, kín đáo. Đó là “chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng”, là cái nắm tay khẽ, cái nghiêng mình e ấp. Tình yêu của Thơ mới không ồn ào, mãnh liệt mà thường e lệ, thầm kín. Nó được gửi gắm qua sự tương giao cảm giác: hương, gió, màu, nắng hòa quyện, tạo nên sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm hồn. Nhà thơ để mặc cho “da thở hương tình”, để cả không gian “hồn hậu rất thơm tho” như chứng giám cho cuộc tình trong sáng.

    Thế nhưng, trong dòng cảm xúc êm đềm ấy, một thoáng buồn man mác chợt len vào: “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”. Câu thơ bâng quơ mà day dứt, thể hiện nỗi lo âu về sự mong manh của tình yêu, sự hữu hạn của hạnh phúc. Đây chính là nét đặc trưng của thơ Huy Cận: dù miêu tả cảnh tình đẹp đẽ, ông vẫn hướng tới suy tư triết lí, gợi ra nỗi buồn nhân sinh. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng: “Thơ Huy Cận đẹp bởi sự hòa quyện giữa cái cụ thể và cái khái quát, cái hồn nhiên và cái triết lí”. Đi giữa đường thơm là minh chứng cho sự hòa quyện ấy: cụ thể là con đường làng, là tình yêu đôi lứa, còn khái quát là nỗi bâng khuâng trước sự ngắn ngủi của tình cảm con người.

    Như vậy, Đi giữa đường thơm không chỉ là bức tranh tình tứ nơi thôn quê, mà còn là một thi phẩm giàu triết lí. Bằng nghệ thuật tương giao cảm giác, ngôn ngữ tinh tế, giọng điệu e ấp mà sâu lắng, Huy Cận đã đem đến một “đường thơm” của hương sắc, của tình yêu và của nỗi suy tư nhân sinh. Đặt trong mạch Thơ mới, bài thơ góp phần khẳng định phong cách trữ tình – triết lí đặc sắc của Huy Cận, để lại dư âm dịu dàng mà day dứt trong lòng người đọc.