ĐÊM CÔN SƠN
- Trần Đăng Khoa -
DÀN Ý PHÂN TÍCH
1. Mở bài
-
Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa – thần đồng thơ ca, giọng thơ giàu cảm xúc, kết hợp hồn nhiên tuổi thơ với chiều sâu lịch sử, dân tộc.
-
Giới thiệu bài thơ Đêm Côn Sơn – sáng tác 1968, in đậm dấu ấn truyền thống và thời đại.
2. Thân bài
a. Bức tranh thiên nhiên Côn Sơn tĩnh lặng, huyền ảo
-
Âm thanh: tiếng chim, tiếng suối rì rầm xa gần.
-
Hình ảnh: lá đa rơi mỏng, nghiêng; ông Bụt trầm mặc.
-
Nghệ thuật: gợi tả tinh tế, giàu nhạc điệu, gợi không gian thanh u, đượm màu cổ tích.
b. Sự hòa nhập giữa con người và lịch sử, tâm linh
-
Cảnh vật chợt biến động: tiếng sấm, tiếng chuông, gió nổi, suối ào ào.
-
Hình ảnh Nguyễn Trãi: “Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm” → gợi sự trở về của lịch sử, niềm kính ngưỡng tiền nhân.
-
Nghệ thuật: kết hợp thực và ảo, hiện tại và quá khứ, tạo không khí linh thiêng.
c. Âm hưởng thời đại chiến tranh
-
Dòng thơ cuối: “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya…” → thực tại khốc liệt xen vào giấc mộng trữ tình.
-
Ý nghĩa: thơ không thoát ly mà gắn bó với hiện tại đất nước, nỗi đau và khát vọng hòa bình.
d. Đặc sắc nghệ thuật
-
Kết hợp bút pháp cổ điển – hiện đại.
-
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu biến đổi linh hoạt.
-
Kết cấu tương phản: tĩnh – động, xưa – nay, trữ tình – sử thi.
-
Lời thơ vừa hồn nhiên, vừa sâu lắng triết lý.
3. Kết bài
-
Khẳng định: Đêm Côn Sơn là thi phẩm giàu giá trị thẩm mĩ, kết tinh tâm hồn thơ Trần Đăng Khoa.
-
Gợi mở: thơ ca khi gắn với thiên nhiên, lịch sử và hiện tại chiến tranh đã trở thành tiếng nói nhân văn, bất diệt.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Trần Đăng Khoa được biết đến như “thần đồng thi ca” với những sáng tác hồn nhiên mà giàu chiều sâu. Bài thơ Đêm Côn Sơn (1968) là một minh chứng rõ rệt: từ bức tranh thiên nhiên cổ kính, nhà thơ mở ra không gian lịch sử linh thiêng và gắn nó với hiện tại chiến tranh đầy biến động, tạo nên thi phẩm độc đáo vừa mang âm hưởng trữ tình, vừa thấm đượm khí phách sử thi.
Trước hết, bài thơ gợi ra vẻ đẹp yên tĩnh, huyền ảo của đêm Côn Sơn. Những âm thanh quen thuộc như “tiếng chim vách núi nhỏ dần”, “rì rầm tiếng suối khi gần khi xa” vang lên êm đềm, như khúc nhạc ru của núi rừng. Cảnh vật trở nên nhẹ nhàng, mỏng manh với “cái lá đa” rơi nghiêng, “ông Bụt ngồi nghiêm” trầm mặc. Cách miêu tả giàu chất hội họa và nhạc điệu khiến thiên nhiên Côn Sơn hiện lên như một cõi cổ tích, gợi nhớ đến thơ Nguyễn Trãi xưa. Theo Hoài Thanh, thơ ca hay phải là nơi “tấm lòng con người gặp gỡ cùng hồn thiêng đất nước”. Ở đây, thiên nhiên Côn Sơn đã mang đậm màu sắc linh thiêng ấy.
Không dừng lại ở bức tranh tĩnh lặng, bài thơ đột ngột chuyển động: “Bỗng đâu vang tiếng sấm rền…”, “rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào”. Cảnh tượng trở nên huyền bí và dữ dội, như đánh thức những vỉa tầng lịch sử. Trong không gian ấy, hình ảnh “hồn Nguyễn Trãi” hiện về, để lại dư vang “tiếng thơ ngâm” giữa đêm trăng. Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn – như trở lại, đồng hành với hậu thế. Thơ Trần Đăng Khoa ở đây không chỉ là cái nhìn tuổi thơ trong sáng mà còn là sự tri ân sâu xa đối với truyền thống văn hóa, lịch sử.
Đặc biệt, hai câu thơ cuối bất ngờ đưa người đọc trở về với hiện tại chiến tranh: “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya…”. Hình ảnh nòng pháo lạnh lẽo trong màn sương gợi sự khốc liệt, đau thương, đồng thời khẳng định thơ ca không thoát ly hiện thực. Giấc mộng trữ tình, lịch sử và cổ tích được đặt trong bối cảnh kháng chiến, làm nổi bật khát vọng hòa bình và sức sống kiên cường của dân tộc.
Về nghệ thuật, Đêm Côn Sơn kết hợp bút pháp cổ điển và hiện đại, tạo nên kết cấu đặc biệt: tĩnh – động, xưa – nay, hư – thực đan xen. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu khi tha thiết, khi dồn dập, phù hợp với mạch cảm xúc. Lời thơ mang giọng hồn nhiên của tuổi thơ nhưng lại ẩn chứa chiều sâu triết lý, đúng như nhận xét của Xuân Diệu: “Trần Đăng Khoa tuy nhỏ tuổi mà thơ đã có một chiều sâu không ngờ”.
Tóm lại, Đêm Côn Sơn không chỉ là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là bản giao hưởng của lịch sử, tâm linh và hiện tại chiến tranh. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Trần Đăng Khoa: hồn nhiên mà sâu sắc, giản dị mà giàu sức gợi. Đọc thơ, ta càng thấy rõ sức mạnh của thi ca – sức mạnh gắn con người với truyền thống, với hiện thực, và với niềm tin bất diệt vào sự sống, hòa bình.
