Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025


 

TRỞ VỀ QUÊ NỘI

- Lê Anh Xuân -

Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa

Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại

Quê hương ta tất cả vẫn còn đây

Dù người thân đã ngã xuống đất này

Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy

Ta nhìn ta, ta ngắm, ta say

Ta run run nắm những bàn tay

Thương nhó dồn trong tay ta nóng bỏng.

 

Đây rồi đoạn đường xưa

Nơi ta vẫn thường đi trong mộng

Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa

Ầu ơ... thương nhớ lắm

Ơi nhũng bông trang trắng, những bông trang hồng.

Như tấm lòng em trong trắng thủy chung

Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm

Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông.

 

Mẹ lưng còng tóc bạc

Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe

Tám em bé chết vì bom xăng đặc

Trên đường đi học trở về.

Giặc giết mười người trong một ấp

Bà con khiêng xác chất đầy ghe

 

Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc

Làng ta mấy lần bom giội nát

Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,

Mẹ dựng tạm mái lêu che mưa che gió.

Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ

Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn

Mẹ ta tần tảo sớm hôm

Nuôi các anh ta dười hầm bí mật

Cả đời mẹ hy sinh gan góc

Hai mươi năm giữ đất, giữ làng

Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.

Ta có ngờ đâu em ta đấy

Dưới mái lều kia em đã lớn lên

Em đệp lắm như mùa xuân bừng dậy

Súng trên vai cũng đẹp như em

Em ơi! Sao tóc em thơm vậy

Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng

Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngọt ngào như nước dừa xiêm

 

Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo

Dịu dàng như những nàng tiên

Em là du kích, em là giao liên

Em là chính quê hương ta đó

Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương

 

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương

Sao thấy lòng ấm lạ

Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn

Tiếng đại bác gầm rung vách lá

Ôi quê hương ta đẹp quá!

Dù trên đường còn những hố bom

Dù áo em vẫn còn mảnh vá

Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son

Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.

 9-1965

1. Phân tích nội dung, chủ đề, cảm xúc chính

Nội dung:

Bài thơ tái hiện cảm xúc của nhà thơ khi trở lại quê hương sau những năm xa cách. Quê hương hiện lên vừa thân thuộc, gắn bó (dòng sông, bóng dừa, mái nhà, hoa bông trang, giọng võng trưa) vừa mang đầy vết thương chiến tranh (bom đạn tàn phá, những mất mát, hy sinh). Nổi bật lên là hình ảnh người mẹ, người em và bà con quê hương kiên trung, giàu đức hy sinh, bất khuất trước kẻ thù.

Chủ đề:

  • Tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước.

  • Niềm xúc động, tự hào trước sự kiên cường của nhân dân miền Nam.

  • Sự hòa quyện giữa chất trữ tình và sử thi: quê hương vừa đẹp, vừa đau thương nhưng bất khuất.

Cảm xúc chính:

  • Xúc động, bồi hồi khi trở lại quê hương.

  • Thương nhớ, đau xót trước những mất mát hy sinh của mẹ, của em, của bao người dân.

  • Tự hào, tin tưởng vào sức sống, vào tinh thần chiến đấu của quê hương, của những con người gan góc, thủy chung.

  • Lãng mạn và trữ tình trong những liên tưởng về tình mẹ, tình em, tình quê.


2. Dàn ý viết bài văn nghị luận (600 chữ)

Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Lê Anh Xuân – một nhà thơ trẻ, hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ, thơ ông giàu chất trữ tình và cảm hứng sử thi.

  • Giới thiệu bài thơ Trở về quê nội – sáng tác 1965, khi tác giả từ miền Bắc trở lại miền Nam chiến đấu.

Thân bài

  1. Khung cảnh quê hương trong nỗi xúc động ngày trở về

    • Hình ảnh quen thuộc: bóng dừa, con sông, tiếng võng trưa, hoa bông trang… → gợi hồn quê đậm chất Nam Bộ.

    • Cảm xúc bồi hồi, run run khi gặp lại người thân và xóm làng.

  2. Những đau thương, mất mát do chiến tranh

    • Hình ảnh tang thương: bom xăng, cái chết của trẻ em, bà con bị giết hại, làng xóm bị tàn phá.

    • Người mẹ: tần tảo, kiên cường, vừa nuôi con vừa nuôi hầm bí mật, biểu tượng của bà mẹ miền Nam anh hùng.

  3. Vẻ đẹp của người em – biểu tượng tuổi trẻ miền Nam

    • Em gái vừa đẹp, vừa kiên cường: “du kích, giao liên”, “súng trên vai”.

    • Vẻ đẹp trong sáng, thủy chung, gắn với hương vị quê hương (sầu riêng, nước dừa, giọng cười).

  4. Cảm hứng sử thi và tinh thần chiến đấu

    • Quê hương hiện lên vừa đẹp, vừa anh hùng.

    • Dù chiến tranh ác liệt, quê hương vẫn ngời sáng niềm tin, sự kiên trung và ý chí căm thù giặc.

Kết bài

  • Bài thơ là bản tình ca và cũng là khúc tráng ca về quê hương miền Nam trong kháng chiến.

  • Thể hiện tình yêu tha thiết quê hương và niềm tin vào sức sống, chiến thắng.


3. Bài văn tham khảo (600 chữ)

       Trong nền thơ ca chống Mỹ, Lê Anh Xuân là một trong những gương mặt tiêu biểu, để lại nhiều tác phẩm thấm đượm tình yêu quê hương, tình thương gia đình, đồng thời thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của con người miền Nam. Bài thơ Trở về quê nội (1965) là một sáng tác giàu cảm xúc, kết tinh vẻ đẹp trữ tình và chất sử thi, thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương gắn liền với lòng căm thù giặc.

        Ngay từ những câu mở đầu, nhà thơ đã cất lên tiếng reo vui, bồi hồi khi trở lại quê hương: “Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa / Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại”. Quê hương hiện lên với bóng dừa xanh, với con sông nhỏ tuổi thơ từng tắm, với tiếng võng trưa và hoa lục bình tím cả bờ sông. Những hình ảnh ấy gợi lên một miền quê Nam Bộ hiền hòa, thơ mộng, gắn bó máu thịt với tuổi thơ nhà thơ. Đó cũng là không gian của tình yêu, với “hoa trang trắng, hoa trang hồng” tượng trưng cho tấm lòng thủy chung của người em gái, với dáng em đi dịu dàng, giọng cười trong trẻo như nước dừa xiêm. Quê hương vì thế không chỉ là cảnh vật, là kỉ niệm mà còn là tình người, là cội nguồn yêu thương.

        Bên cạnh vẻ đẹp trữ tình, bài thơ còn khắc họa những hiện thực đau thương và bi tráng của chiến tranh. Quê hương không chỉ có dòng sông tím hoa lục bình, mà còn in hằn dấu tích bom đạn: “Tám em bé chết vì bom xăng đặc”, “giặc giết mười người trong một ấp”, “dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”. Những câu thơ ấy là tiếng khóc thương đau xót nhưng cũng là lời tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Trong bối cảnh ấy, hình ảnh người mẹ hiện lên đầy xúc động: mái tóc bạc, tấm lưng còng, mái lều tạm bợ nhưng tấm lòng thì kiên trung bất khuất, suốt hai mươi năm nuôi giấu cán bộ, giữ đất, giữ làng. Người em gái hiện lên như biểu tượng của sức sống và niềm tin: “Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy / Súng trên vai cũng đẹp như em”. Từ tình cảm cá nhân, tác giả nâng lên thành tình yêu và niềm tự hào về sức sống bất diệt của quê hương, của nhân dân miền Nam anh hùng.

      Bài thơ còn mang đậm cảm xúc sử thi. Tiếng reo vui xen lẫn nghẹn ngào của nhà thơ không chỉ là tình cảm riêng tư mà còn là tiếng lòng chung của bao người con miền Nam trong những năm tháng kháng chiến ác liệt. Quê hương được ngợi ca không chỉ bởi cảnh sắc đẹp đẽ mà còn bởi sự kiên cường, trung dũng, thủy chung son sắt của con người. Vì thế, Trở về quê nội là bản anh hùng ca ca ngợi quê hương Nam Bộ kiên cường, bất khuất.

       Về phương diện nghệ thuật, tác phẩm tạo dấu ấn sâu sắc nhờ sự hòa quyện giữa giọng điệu trữ tình và chính luận. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, giàu cảm xúc, gắn với hình ảnh quen thuộc của miền quê Nam Bộ như hoa lục bình, bờ tre, mái lều, con sông nhỏ… Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, điệp từ được vận dụng linh hoạt: “Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy”, “hoa trang trắng, hoa trang hồng / Như tấm lòng em trong trắng thủy chung”… làm cho tình cảm thêm mãnh liệt và giàu sức gợi. Hình ảnh thơ vừa cụ thể đời thường, vừa khái quát biểu tượng: người mẹ, người em không chỉ là người thân mà còn là biểu tượng của quê hương, của Tổ quốc. Cấu tứ bài thơ theo dòng cảm xúc tự nhiên, tuôn chảy như dòng hồi tưởng và trải nghiệm thực tại, khiến người đọc cảm nhận được sự chân thành và tha thiết.

        Có thể nói, Trở về quê nội không chỉ là lời tự sự cảm động của Lê Anh Xuân khi trở lại quê hương, mà còn là khúc tráng ca về tình yêu quê hương gắn với ý chí đấu tranh bất khuất. Bài thơ góp phần khẳng định một phong cách thơ giàu cảm xúc, giàu hình tượng và thấm đẫm tinh thần sử thi của Lê Anh Xuân – nhà thơ liệt sĩ tài hoa, dũng cảm.