Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,
Lãng thưởng chưa lìa lưới trần.
Ở thế những hiềm qua mỗ thế,
Có thân thì sá cốc chưng thân.
Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu,
Câu ước công danh đổi một cần[1].
Miệt[2] bả hài gai khăn cốc,
Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân.
Chú thích:
[1] Xem Mạn thuật bài 8, câu 4.
[2] “Miệt” nghĩa là bí tất, vớ. Cả câu ý nói vớ thô, giày gai, khăn cũ.
💥 Dàn ý
1. Mở bài
-
Giới thiệu Nguyễn Trãi – bậc “anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”, đồng thời là nhà thơ kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam.
-
Giới thiệu Mạn thuật 11 (thuộc Quốc âm thi tập): phản ánh tâm sự của Ức Trai trong những năm ẩn dật, vừa thanh thản hòa mình với thiên nhiên, vừa day dứt vì chí lớn không trọn.
-
Dẫn vấn đề: Nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
2. Thân bài
a. Tâm thế ẩn dật của Nguyễn Trãi
-
“Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân / Lãng thưởng chưa lìa lưới trần”: trở về Côn Sơn, tìm cuộc sống bình yên, hòa hợp thiên nhiên nhưng vẫn còn vướng bận nợ trần thế.
-
Nhận định của Hoài Thanh: “Trong thơ Nguyễn Trãi, cái bóng của đời sống thực không bao giờ tan biến.” → dù nói ẩn dật nhưng vẫn phảng phất mối lo đời.
b. Suy tư về thân phận và lẽ đời
-
“Ở thế những hiềm qua mỗ thế / Có thân thì sá cốc chưng thân”: thái độ ngao ngán với lẽ đời thị phi, nhận ra quy luật “có thân ắt có phiền lụy”.
-
Thể hiện triết lý sống gắn với Nho – Phật – Lão: vừa nhập thế cứu đời, vừa lui về tu dưỡng.
-
Nhận định của Trần Đình Hượu: “Nguyễn Trãi là sự kết tinh của mâu thuẫn: vừa thiết tha nhập thế, vừa đau đớn thoát tục.”
c. Vẻ đẹp của đời sống thanh nhàn
-
“Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu / Câu ước công danh đổi một cần”: khung cảnh thôn dã với vườn thông, trúc gợi sự thanh cao.
-
Quan niệm “lấy cần câu đổi công danh” → thoát khỏi vòng danh lợi, tìm thú vui trong thiên nhiên.
-
Đây là “cái nhàn” mang đậm tinh thần Nho – Lão, khác với cái nhàn tiêu dao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này thể hiện.
d. Cuộc sống xuềnh xoàng, giản dị
-
“Miệt bả hài gai khăn cốc / Xuềnh xoàng làm mỗ đứa thôn nhân”: tự nguyện sống như một nông phu bình thường, gắn bó với dân quê.
-
Nhận định của Nguyễn Đăng Na: “Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên đưa hình ảnh người dân quê và cuộc sống thôn dã vào trong thi ca với tất cả sự trân trọng.”
e. Nghệ thuật
-
Thể thơ Nôm Đường luật nhưng phóng khoáng, linh hoạt.
-
Ngôn ngữ giản dị, giàu chất khẩu ngữ, gần gũi với đời sống thường nhật.
-
Nhiều từ thuần Việt mộc mạc (“xuềnh xoàng”, “mỗ đứa thôn nhân”) tạo sắc thái dân dã.
-
Kết hợp giữa chất triết lý và chất trữ tình.
3. Kết bài
-
Khẳng định: Mạn thuật 11 tiêu biểu cho tâm sự của Nguyễn Trãi – vừa yêu thiên nhiên, tìm đời sống nhàn tĩnh, vừa mang nỗi niềm bất đắc chí.
-
Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc, tinh thần gắn bó với dân quê, đồng thời phản ánh phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.
-
Nhận định của Phạm Văn Đồng: “Nguyễn Trãi đã để lại cho dân tộc ta một kho tàng thơ văn lớn lao, trong đó ánh lên một tâm hồn yêu nước, thương dân, chan chứa nhân nghĩa.”
💥Bài viết tham khảo
Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, nhà chính trị, nhà văn hóa kiệt xuất, đồng thời cũng là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học Việt Nam trung đại. Ông được UNESCO tôn vinh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Nếu Bình Ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và khát vọng độc lập dân tộc, thì Quốc âm thi tập lại là nơi ông gửi gắm tâm tình cá nhân, những nỗi niềm về cuộc sống, thời thế và nhân tình. Trong đó, Mạn thuật 11 là một bài thơ tiêu biểu, phản ánh cuộc sống ẩn dật nơi Côn Sơn, vừa thanh nhàn hòa hợp với thiên nhiên, vừa phảng phất nỗi niềm day dứt của một chí lớn không trọn vẹn.
Ngay từ hai câu mở đầu:
Nguyễn Trãi tự bạch về những năm tháng ẩn cư nơi quê cũ. Từ “náu” gợi cảm giác vừa tìm chốn nương náu, vừa có chút bất đắc dĩ, buồn tủi. Ông tìm niềm vui trong “lãng thưởng” – sự thưởng thức cảnh vật, nhưng tâm hồn vẫn chưa thoát khỏi “lưới trần”. Hoài Thanh từng nhận xét: “Trong thơ Nguyễn Trãi, cái bóng của đời sống thực không bao giờ tan biến.” Quả vậy, ngay cả khi ở ẩn, Nguyễn Trãi vẫn đau đáu mối lo về thế sự, vẫn mang nặng nợ đời, nợ nước.
Hai câu tiếp theo bộc lộ nỗi ngán ngẩm với kiếp nhân sinh:
Nguyễn Trãi nhận ra sự nghiệt ngã của đời người: sống ở đời thì tất yếu vướng phải thị phi, hiềm khích; có thân thì khó tránh khỏi khổ lụy. Đây là cái nhìn triết lý thấm đẫm tinh thần Phật – Lão, đồng thời cũng là lời tự nhủ để ông an phận với cuộc sống ẩn dật. Trần Đình Hượu từng nhận định: “Nguyễn Trãi là sự kết tinh của mâu thuẫn: vừa thiết tha nhập thế, vừa đau đớn thoát tục.” Những câu thơ này là minh chứng rõ ràng cho mâu thuẫn ấy: dẫu lui về thôn dã, ông vẫn không nguôi sự ngậm ngùi, chua xót cho thân phận mình.
Ở hai câu thực, hình ảnh thiên nhiên hiện lên bình dị mà thanh cao:
Vườn thông trúc tượng trưng cho nếp sống thanh khiết, cao nhã. “Cần câu” là thú vui dân dã, giản dị, đối lập với “công danh” nơi triều chính. Chỉ bằng một cần câu, Nguyễn Trãi sẵn sàng đổi cả “công danh” – điều vốn là hoài bão của bao kẻ sĩ. Đây không phải sự buông bỏ tiêu cực, mà là thái độ lựa chọn một lối sống an nhiên, thanh sạch. Nó gợi nhớ đến nhận định của Phạm Văn Đồng: “Nguyễn Trãi đã để lại cho dân tộc ta một kho tàng thơ văn lớn lao, trong đó ánh lên một tâm hồn yêu nước, thương dân, chan chứa nhân nghĩa.” Chính vì “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi sẵn sàng từ bỏ công danh nhiễu nhương để giữ lấy sự thanh cao, trong sạch.
Hai câu kết mang lại hình ảnh bình dị và gần gũi:
Ông chọn cho mình cuộc sống mộc mạc của một nông phu: đi dép gai, đội khăn cốc, xuềnh xoàng mà thanh thản. Cách dùng những từ thuần Việt như “miệt bả”, “xuềnh xoàng”, “mỗ đứa” khiến giọng thơ mộc mạc, gần với khẩu ngữ đời thường. Nguyễn Đăng Na từng nhận định: “Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên đưa hình ảnh người dân quê và cuộc sống thôn dã vào trong thi ca với tất cả sự trân trọng.” Ở đây, Nguyễn Trãi không chỉ tìm đến cuộc sống của dân quê, mà còn hóa thân vào chính họ, sống như họ, gắn bó máu thịt với họ.
Về nghệ thuật, Mạn thuật 11 tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm Nguyễn Trãi: thể thơ Đường luật nhưng biến hóa linh hoạt, giàu tính dân tộc; ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với đời sống; nhiều từ thuần Việt tạo nên chất dân dã hiếm thấy trong văn học đương thời. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất triết lý sâu sắc và chất trữ tình dạt dào, giữa tâm sự cá nhân và khát vọng nhân sinh.
Tóm lại, Mạn thuật 11 là bức tranh chân thực về cuộc sống ẩn dật của Nguyễn Trãi nơi Côn Sơn. Đằng sau vẻ bình dị, xuềnh xoàng là một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, mang trong mình những mâu thuẫn giữa nhập thế và thoát tục, giữa khát vọng công danh và nỗi đau đời thường. Bài thơ thể hiện nhân sinh quan, tư tưởng nhân nghĩa và tấm lòng gắn bó với dân quê của Nguyễn Trãi. Như Nguyễn Huệ Chi từng nhận xét: “Nguyễn Trãi là người đã làm cho tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ văn học, đồng thời là một tấm gương sáng về tư tưởng nhân nghĩa và tình thương yêu con người.” Đó cũng chính là giá trị trường tồn của Mạn thuật 11 nói riêng và Quốc âm thi tập nói chung.
